định rằng mỗi nhóm phải để lại dấu vết chuyến thăm của họ trên bức tường
cabin. VÀO TỚI LÕI SAN HÔ NĂM 2004, một dòng chữ được viết trên
tường bằng bút đánh dấu. Những dòng chữ khác bao gồm:
HẢI ĐOÀN CUA: KỀM KẸP CÓ NGUYÊN CỚ - 2005
SEX SAN HÔ - 2008
NHÓM HUỲNH QUANG - 2009
Nhóm người Mỹ-Israel đang ở đó, khi tôi tới đã có hai chuyến đi đến hòn
đảo. Câu trào phúng của họ để lại trên tường trong chuyến ghé đảo đầu tiên,
XẢ AXÍT LÊN SAN HÔ, kèm theo một bức tranh nguệch ngoạc một ống
tiêm đang tiêm thứ nhìn như máu vào địa cầu. Thông điệp mới nhất của
nhóm này liên quan tới khu vực nghiên cứu của họ, một dải san hồ tên gọi
DK-13. DK-13 nằm ở ngoài dải san hô chính, cách trạm đủ xa tới mức để
liên lạc thì nó chẳng khác gì ở trên mặt trăng.
Dòng chữ trên tường là:
DK-13: KHÔNG AI NGHE THẤY TIẾNG BẠN HÉT.
***
Người châu Âu đầu tiên chạm trán rạn san hô Great Barrier là thuyền
trưởng James Cook. Vào mùa xuân năm 1770, Cook đang đi tàu dọc theo bờ
biển phía đông Úc thì tàu của ông, chiếc Endeavour, đâm vào một dải san hô
ở cách ba mươi dặm về phía đông nam so với vùng ngày nay được gọi tên,
không hề tình cờ, là Cooktown. Tất cả những gì vứt đi được, bao gồm khẩu
pháo của con tàu, đã bị ném qua boong tàu xuống biển, và chiếc Endeavour
bị thủng đã kẽo kẹt vào được tới bờ, nơi thủy thủ đoàn mất hai tháng mới
sửa xong thân tàu. Cook bối rối bởi điều ông mô tả là “một bức tường san hô
đá nổi lên gần như thẳng đứng từ dưới đáy đại dương không tài nào hiểu
được”. Ông hiểu rằng san hô có nguồn gốc sinh học, rằng nó đã “được tạo
thành dưới biển bởi các động vật”. Nhưng vậy thì bằng cách nào, sau này
ông sẽ đặt câu hỏi, nó lại có thể “mọc lên cao như thế?”