tương ứng rõ rệt nào ở thời hiện đại. Đào tiếp tục và các loài có vú biến mất
hoàn toàn khỏi hồ sơ hóa thạch. Dần dần người ta sẽ tới một thế giới không
chỉ trước chúng ta, mà còn trước đó nữa, do các loài bò sát khổng lồ thống
trị.
***
Những ý tưởng của Cuvier về lịch sử sự sống như thế, rằng sự sống kéo
dài, hay thay đổi và đầy những sinh vật lý thú nay không còn tồn tại nữa, có
vẻ sẽ khiến ông trở thành một người ủng hộ tự nhiên của thuyết tiến hóa.
Nhưng Cuvier phản đối khái niệm tiến hóa, hay transformisme như khái
niệm này vẫn được gọi ở Paris thời bấy giờ, và ông đã - nói chung là có vẻ -
thành công trong việc hạ nhục bất cứ đồng nghiệp nào ủng hộ thuyết này.
Thật đáng tò mò, cũng chính những kỹ năng đã giúp ông phát hiện ra sự
tuyệt chủng lại làm cho sự tiến hóa trở nên phi lý đối với ông, một việc bất
khả như biết bay.
Như Cuvier vẫn thích chỉ ra, ông đặt lòng tin ở giải phẫu học; đây là điều
đã cho phép ông phân biệt xương một con voi ma mút với một con voi
thường và nhận ra một con kỳ giông khổng lồ từ bộ xương ban đầu tưởng là
của con người. Ở trọng tâm hiểu biết của ông về giải phẫu học là quan điểm
mà ông gọi là “sự tương quan của các bộ phận”. Điều đó với ông có nghĩa là
những thành phần cấu tạo nên một con vật đều phải khớp với nhau và được
thiết kế tối ưu cho lối sống cụ thể của con vật đó; như vậy, lấy ví dụ, một
loài ăn thịt sẽ có hệ thống ruột phù hợp với việc tiêu hóa thịt. Cùng lúc,
xương hàm của nó sẽ được cấu tạo để cắn xé con mồi; những móng vuốt để
vồ và xé, răng để cắn và xẻ thịt; cả hệ thống những cơ quan vận động của nó
để rượt đuổi và bắt; những cơ quan giác quan của nó để phát hiện con mồi từ
xa.
Trái lại, một con vật có móng guốc nhất thiết phải là loài ăn cỏ, do nó
“không có phương tiện nào để vồ mồi”. Nó sẽ có “răng với phần mão răng
bằng phẳng, để nghiền hạt và cỏ”, và một bộ hàm có thể nhai ngang. Nếu bất
cứ phần nào trong đó bị thay đổi, sự tổng hòa chức năng của tổng thể sẽ bị
phá hủy. Một con vật sinh ra với, chẳng hạn như răng hay các giác quan