Có thể nói rằng chọn lọc tự nhiên là việc xem xét kỹ lưỡng từng
ngày và từng giờ, khắp thế giới, mỗi biến thể, dù là nhỏ nhất; loại
bỏ những gì xấu, bảo tồn và bổ sung những gì tốt; một công việc
lặng lẽ và không thể cảm nhận được bằng giác quan, bất cứ khi
nào và bất cứ nơi nào có cơ hội.
Chọn lọc tự nhiên loại bỏ sự cần thiết đối với bất cứ phép mầu sáng tạo
nào. Chỉ cần có đủ thời gian để “mỗi biến thể, dù là nhỏ nhất” tích tụ lại, các
loài mới sẽ xuất hiện từ các loài cũ. Lyell lần này không hoan nghênh công
trình của cậu học trò cưng nhanh nhẹn như lần trước. Ông chỉ miễn cưỡng
chấp nhận lý thuyết của Darwin về “sự kế thừa có chỉnh sửa”, miễn cưỡng
tới mức lập trường của ông có vẻ rốt cuộc đã hủy hoại tình bạn giữa họ.
Thuyết của Darwin về cách các loài có nguồn gốc ra sao cũng sinh đôi
luôn một thuyết giải thích tại sao chúng diệt vong. Sự tuyệt chủng và tiến
hóa là hai phần không thể tách rời của mảnh vải sự sống, hay nếu các bạn
thích cách so sánh này hơn, thì như hai mặt của một đồng xu. “Sự xuất hiện
của những dạng thức mới và sự biến mất của những dạng thức cũ,” Darwin
viết, “gắn kết với nhau”. Thúc đẩy cả hai điều đó là “cuộc vật lộn để tồn
tại,” chỉ tưởng thưởng những loài biết thích nghi và loại bỏ những loài kém
thích nghi hơn.
Thuyết chọn lọc tự nhiên đặt nền tảng trên niềm tin rằng mỗi biến thể
mới, và rốt cuộc là mỗi loài mới, được sản sinh và duy trì bằng cách có vài
lợi thế nhất định so với những loài mà nó cạnh tranh; và sự tuyệt chủng kéo
theo sau đó của những dạng thức kém ưu thế hơn gần như là không thể tránh
khỏi.
Darwin đã sử dụng phép loại suy từ gia súc. Khi một biến thể năng sản và
khỏe mạnh hơn ra đời, nó nhanh chóng thay thế các giống khác. Ở Yorkshire
chẳng hạn, ông chỉ ra rằng, “về mặt lịch sử chúng ta biết rằng loài bò đen cổ
xưa đã bị thay thế bằng loài bò sừng dài”, và rằng những con bò sừng dài
sau đó lại bị “quét sạch” bởi những con bò sừng ngắn, “như thể bởi một trận
đại dịch vậy.”