thăm, từng mười người một, để chọn ra một người mà họ sẽ ăn thịt! Khi
Cambyses biết chuyện, sợ họ xé xác lẫn nhau, hắn mới ngừng cuộc chinh
phạt Ethiopia và quay về.”
***
Như tôi đã nhắc, Sử ký của Herodotus được xuất bản vào năm 1955. Hai
năm đã trôi qua kể từ khi Stalin chết. Bầu không khí đã nhẹ nhàng hơn, mọi
người dễ thở hơn. Chính vào thời điểm đó tiểu thuyết của Ehrenburg
ra
mắt độc giả, nhan đề của nó chính là tên gọi của một thời đại mới đang bắt
đầu: Tan băng. Khi đó văn học dường như là tất cả. Người ta tìm kiếm trong
nó sức sống, những kim chỉ nam và những sự khai sáng.
Tôi tốt nghiệp đại học và bắt đầu làm việc ở một tòa soạn báo. Tờ báo có
tên là Ngọn cờ thanh niên. Tôi là một phóng viên mới vào nghề, làm các
phóng sự lần theo vết các lá thư gửi đến tòa soạn. Những người viết thư lên
án cái nghèo và sự bất công, họ kêu ca rằng nhà nước đã lấy mất của họ đến
con bò cuối cùng, hoặc làng họ mãi vẫn chưa có điện. Người kiểm duyệt
sửa lại cho “nhẹ nhàng” hơn, ví dụ có thể viết rằng ở làng Chodów có một
cửa hàng lúc nào cũng trống trơn, chẳng thể mua được gì ở đó. Tiến bộ là ở
chỗ khi Stalin còn sống thì không được viết một cửa hàng nào đó trống rỗng
- mọi cửa hàng đều phải luôn phong phú và đầy ắp hàng hóa. Tôi đi từ làng
này sang làng khác, từ thị trấn này đến thị trấn khác trên những toa tàu chở
hàng lọc xọc, hoặc bằng những chuyến xe buýt ọp ẹp vì xe hơi riêng là thứ
hiếm hoi, thậm chí có một chiếc xe đạp cũng đã là khó.
Thỉnh thoảng những chuyến xe đưa tôi đến các làng giáp biên. Nhưng
chuyện đó cũng rất hiếm hoi. Vì càng gần đến biên giới, đất đai càng hoang
vu hơn, càng gặp được ít người hơn. Sự bí ẩn và yên tĩnh này hấp dẫn, kích
thích tôi. Tôi tò mò muốn xem những gì ở phía bên kia biên giới - tôi tự hỏi
khi đi qua biên giới thì người ta sẽ trải nghiệm những gì. Sẽ cảm thấy như
thế nào? Sẽ nghĩ gì? Chắc chắn đó phải là khoảnh khắc của những cảm xúc,
rung động, dồn nén mãnh liệt. Phía bên kia - như thế nào nhỉ? Sẽ khác -
chắc chắn rồi. Nhưng “khác” có nghĩa là gì? Trông nó thế nào? Nó giống