về với phần đối đáp, còn khán giả, vừa mới chìm trong trạng thái nhập thần,
lại cười vui vẻ và thích thú.
Sân khấu đường phố không chỉ có các điệu múa. Một yếu tố quan trọng,
thậm chí không thể tách rời khác của nó là mặt nạ. Các diễn viên đôi khi
đeo mặt nạ trình diễn, cũng có khi đơn giản là họ cầm nó trong tay, kẹp vào
nách, thậm chí gắn vào lưng, vì trong cái nóng nực ấy khó mà đeo mặt nạ
được lâu. Mặt nạ là biểu tượng, là một vật đầy cảm xúc và ý nghĩa, nó nói
về sự hiện hữu của một thế giới nào đó khác mà nó là biểu hiện, dấu hiệu,
thông điệp. Nó truyền đạt với chúng ta cái gì đó, cảnh báo điều gì đó, có vẻ
như bất động và không có sự sống, bằng chính diện mạo của mình nó cô
gắng đánh thức tình cảm của chúng ta, khơi dậy cảm xúc, làm ta bị lệ thuộc
vào nó.
Senghor mượn của các viện bảo tàng, thu thập lại hàng ngàn hàng ngàn mặt
nạ. Trong cái tập hợp này, những chiếc mặt nạ tạo nên một thế giới bí ẩn,
khác biệt. Bước vào thế giới ấy là một trải nghiệm đặc biệt. Người ta bắt
đầu hiểu ra tại sao mặt nạ lại có quyền lực lớn đến thế đối với con người,
thôi miên họ, áp đảo hoặc làm họ mê man. Bắt đầu trở nên rõ ràng tại sao
mặt nạ và niềm tin vào sức mạnh thần bí của nó đã gắn kết cả cộng đồng,
cho phép họ liên hệ với nhau xuyên qua các lục địa và đại dương, mang đến
cho họ ý thức về cộng đồng và bản sắc, trở thành một hình thức của truyền
thống và ký ức tập thể.
Đi từ một cuộc trình diễn sân khấu này sang cuộc trình diễn khác, từ một
triển lãm mặt nạ và tượng này sang một triển lãm khác, tôi cảm thấy mình
là nhân chứng cho sự phục sinh của một nền văn hóa vĩ đại, sự ra đời ý thức
về tính khác biệt, tầm quan trọng và niềm tự hào của nó, nhận thức về phạm
vi toàn cầu và phổ biến của nó, vì ở đây không chỉ có mặt nạ của
Mozambique và Congo, mà còn có cả đèn lồng cho các nghi lễ macumba
của Rio de Janeiro, cả phù hiệu của các thần hộ mệnh trong tà thuật Haiti,
cả bản sao những cái quách của các Pharaon Ai Cập.
***