khóa chắc chắn. Chỉ mình mẹ biết chìa khóa ở đâu và, như bà hứa với lòng,
thà bị đọa đày dưới hỏa ngục chứ nhất định không khai ra.
Với tôi và cả mấy cô chị em kia nữa, tìm ra cách gỡ khóa chỉ còn là
vấn đề thời gian.
Từ đó về sau chiến tranh du kích luôn diễn ra. Bà phải tìm cho được
nơi giấu mới cho cái thức uống luôn bị giảm đi rất nhanh chóng kia. Helen
còn thề nghe được mẹ nói chuyện điện thoại với dì Julia, cũng là một con
nghiện, hỏi dì có gợi ý chỗ cất giấu nào không. Có điều chuyện này chưa
từng được chứng thực, nên đừng tin nó.
Nhưng bao giờ cũng vậy, mẹ cũng chỉ nhanh hơn bọn tôi được một
giây. Cứ vừa tìm được nơi cất giấu mới là lại có đứa phát hiện ra. Giống
như người ta cứ phải liên tục bào chế ra các loại kháng sinh mới để chiến
đấu với dòng dõi nhà vi trùng dai sức, bà luôn phải nghĩ ra chỗ cất giấu
mới. Không may cho bà là mấy chỗ ấy chẳng mới hay bí mật được lâu.
Bà thậm chí cũng đã thử ngồi lại khuyên nhủ bọn tôi: "Các con đừng
uống nhiều quá. Hay ít ra là cũng đừng uống của bố mẹ nhiều quá."
Và câu trả lời bà nhận được, với một giọng thiều não hơn là giận dữ
tức tối, luôn đại loại là: "Nhưng mẹ à, tụi con thích uống. Tụi con nghèo
quá, có được chọn lựa gì đâu. Chứ mẹ nghĩ phải chôm chỉa thế tụi con sung
sướng lắm chắc?"
Mặc dù Margaret, Rachel và tôi đều đã dọn ra ngoài và có đủ tiền nuôi
bát cứ thói xấu nào, Helen và Anna vẫn còn ở nhà và nghèo giơ xương ra.
Vậy cho nên cuộc chiến vẫn cứ tiếp diễn.
Và bộ sưu tập rượu quý giá đầy tự hào ngày nào giờ chỉ còn lại vài ba
chai rỗng, bong như xơ mướp, vẫn tiếp tục cuộc đời du mục lang thang từ
các tủ quần áo đến xô đựng than, đến nằm dưới gầm giường mong kiếm
một chân trời bình yên. Còn đâu nữa những chai rượu óng ánh sủi bọt tăm