thấy bọn chúng quá may mắn có được hai xương hông lòi hết cả ra, đùi độc
toàn nạc và trông ốm o lỏng khỏng.
Tôi chưa từng biết ăn mất ngon là gì, bất kể hoàn cảnh nào: nơm nớp
thi cử, phỏng vấn xin việc, hồi hộp trước đám cưới hay cả khi bị ngộ độc
thực phẩm. Chẳng thứ gì làm mảy may xê xích cái bụng ăn như lợn của tôi.
Nếu gặp ai gầy nhẳng mà kêu: "Ôi tôi đúng là lẩn thẩn, quên cả ăn!", tôi sẽ
nhìn chòng chọc vào họ, cố giấu nỗi cay đắng và cái thắc mắc khốn khổ
của mình, cảm thấy mình sao mà chẳng xinh đẹp, sao mà nặng nề và ngốc
nghếch. "Mấy con quỷ cái may mắn," tôi thầm nghĩ. "Làm thế nào có kẻ
quên cả ăn được kia chứ?" Tôi lúc nào cũng mê ăn - sao mà nhục nhã và
quê kệch.
Bởi vì khi mà trái đất ngừng quay và chúng ta thoát khỏi cái thân xác
tội lỗi để lên thiên đàng, và thời gian không còn tồn tại, ta chỉ còn là những
linh hồn bất diệt mãi mãi thờ phụng Chúa, thì tôi vẫn phải xơi một thanh
KitKat, đúng mười một giờ sáng mỗi ngày. Nhưng tôi cũng tự an ủi mình là
những đứa con gái gầy nhẳng kia chỉ nói dối như vâm. Chúng chính hiệu là
những kẻ cuồng ăn vô độ, hoặc phải tiêm ma túy, hoặc cứ đến cuối tuần là
lại đi hút mỡ thôi.
Và giờ đây, lần đầu tiên trong đời, tôi không thấy đói, nếu không nói
là chỉ nghĩ đến phải ăn thôi tôi đã phát hoảng.
Tôi mặc kệ. Tôi không thấy sướng run lên hay bất cứ cảm giác gì.
Phải chi hồi mười bảy tôi cũng cảm thấy thế này, tôi sẽ nghĩ mình may mắn
được là một trong số ít ỏi những đứa con gái được chấm.
Giờ thì tôi quá đuối sức và đau khổ, không buồn quan tâm đến nó nữa.
Ngày cứ lê lết trôi đi. Cũng có lúc tôi ra khỏi giường, bế Kate xuống
nhà xem phim truyền hình nhiều tập của Úc với mẹ. Tôi uống với mẹ một
tách trà rồi lại trở lên phòng.