Hoàng hà, mây trắng liền nhau
Thành côi một mảnh, núi cao tiếp trời
Thổi chi Chiết Liễu sáo ơi
Gió xuân đâu lọt ra ngoài Ngọc Môn[1]
[1] Bài thơ “Khúc Lương Châu” – Vương Chi Hoán, bản dịch của Tương
Như. Khúc Chiết liễu thời xưa, phổ cho sáo, gợi nỗi buồn người đi chinh
chiến hoặc kẻ xa nhà.
Cửa ải cô liêu đứng sừng sững trên núi cao này được biết đến nhờ những
chuyến hàng ngọc Khotan được chuyên chở qua đây để vào Trung Nguyên.
Vào thời cổ đại, khái niệm biên giới quốc gia không rõ ràng như thời hiện
đại, cửa ải Ngọc Môn chỉ được hiểu là nơi phân chia ranh giới giữa Tây
vực và Trung Nguyên, tiến vào Ngọc Môn Quan tức là đã đặt chân lên
mảnh đất Trung Nguyên rộng lớn.
“Mưa mai thấm bụi Vị Thành
Liễu bên quán trọ sắc xanh ngời ngời. Khuyên anh hãy cạn chén mời
Dương Quan ra khỏi ai người cố tri[2]”
[2] Bài thơ “Tiễn bác Hai Nguyên đi sứ An Tây” – Vương Duy, bản dịch
của Tương Như.
Phải qua cửa ải Dương Quan, bạn mới có thể tiến vào thành phố phồn
hoa nhất ở cực Tây – thành Đôn Hoàng. Hán Vũ Đế đã “lập bốn quận,
dựng hai ải” trên hành lang Hà Tây. Bốn quận đó là Vũ Uy, Trương Dịch,
Tửu Tuyền, Đôn Hoàng, hai cửa ải là Ngọc Môn Quan và Dương Quan.
Bốn quận nêu trên, đồng thời là bốn thành phố quan trọng nhất trên hành
lang Hà Tây, cả bốn thành phố vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển cho đến tận