một cách không cần thiết và tập bảo tồn năng lực.
26.Sau khi nghe hay đọc về những kinh nghiệm trong pháp hành của
người khác, ta có thể biết rõ hay không, và mong cầu sẽ được vậy. Rồi đến
khi tự mình chứng nghiệm được gì tương tợ, có thể ta vội vã xác quyết là
mình đã chứng ngộ tuệ minh sát. Nhưng trong thực tế ta chỉ có những kinh
nghiệm tương tợ.
27.Tâm phóng dật là sinh hoạt tự nhiên của tâm. Nếu cố giữ không cho
tâm di chuyển bay nhảy là ta không chấp nhận một sự kiện tự nhiên. Một
khi chấp nhận điều nầy, tức có thái độ chân chánh, ta sẽ quan sát tâm phóng
dật dễ dàng hơn. Lúc ban đầu có thể ta thường thất niệm, nhưng không hề
gì. Dần dần về sau, với pháp hành tiến triển, ta sẽ bắt đầu quan sát, thấy
tâm phóng dật “chỉ là một tư tưởng”, và càng lúc càng ít thất niệm.
28.Chớ nên kháng cự, chớ mong cầu -- hãy chấp nhận sự việc còn như
nó là vậy.
29.Tâm phóng dật không phải là vấn đề, thái độ của ta muốn cho tâm
không phóng dật mới là vấn đề. Chính đối tượng không quan trọng, nhưng
phương cách ta quan sát, hay nhìn đối tượng như thế nào mới thật sự quan
trọng.
30.Những gì ta quan sát hay ta quan sát ở đâu không quan trọng, trạng
thái thức tỉnh chú niệm mới thật sự quan trọng.
31.Bất cứ lúc còn nào cũng đúng lúc hành thiền.
32.Mục đích của thiền vắng lặng (samatha) là đạt đến trạng thái tâm
(tâm sở) nào đó, trong khi thiền Minh Sát (vipassanā) là một hành trình học
hỏi và hiểu biết.