khỏi phần khung mạ vàng trang trí công phu. Mắt bà mở to. “Mẹ không bao
giờ chạm vào nó.”
Erin làm rơi đống thư trên đi văng, nhấc chiếc gương ra khỏi tường.
Nó nặng tới mức khó tin. Cô đành xoay nó ra ngoài.
Mặt gương bị vỡ tan tành.
Vết nứt lan ra từ một lỗ thủng xấu xí, như có người đã dùng một vật
nặng đập thẳng vào. Những mảnh vỡ lấp lánh của tấm gương nằm rải rác
trên thảm, phản chiếu khuôn mặt khiếp sợ của mẹ cô trên các cạnh lởm
chởm của chúng.
Ánh mắt họ chạm nhau. Mẹ cô giơ tay lên che như để tránh một cú
đánh. “Không phải mẹ”, bà nói. “Mẹ không bao giờ làm chuyện dó. Không
bao giờ.”
“Còn ai trong nhà này nữa?”, Erin gặng hỏi. “Thế quái nào mà mẹ
không nghe thấy ai đã làm chuyện này chứ?”
“Mẹ… Mẹ đã ngủ rất nhiều”, mẹ cô ấp úng. “Và đôi lúc, mẹ, ờ, uống
vài viên Vicodin để giảm đau đầu và lưng. Nếu mẹ uống một viên thì dù cả
một đội quân diễu hành qua đây mẹ cũng không nghe thấy gì đâu. Nhưng
có Chúa biết, điều mẹ không bao giờ quên là luôn luôn khoá toàn bộ cửa ra
vào sau tất cả mọi chuyện!”
Erin cẩn thận đặt tấm gương đứng thẳng trên sàn nhà áp vào tường và
ôm lấy bản thân.
Bảy năm xui xẻo. Như thể chúng vẫn chưa thoát khỏi vận rủi của
mình.
Một ý nghĩ chợt ập đến, cô liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường của ông
nội, một kho báu khác của bà nội đến từ nước Anh vào cuối thế kỷ XIX. Cô
xoay nó lại.
Mặt kính của chiếc đồng hồ cổ cũng bị đập vỡ.
Cô thẫn thờ đi tới chiếc đi văng, ngồi phịch xuống. Chồng thư bên
cạnh bỗng nhiên trở nên không còn quan trọng như cô đã nghĩ vài phút
trước.
“Mẹ, có lẽ mẹ nên nói chuyện này với ai đó”, cô thì thầm.