cứng rắn, ông ta vẫn dịu hiền, mặc dù thể hiện đầy nhục cảm, ông vẫn
là người duy cảm.
Một vài đặc điểm về cách diễn đạt thể hiện thoảng nhẹ trong hội
thoại của Bergotte không chỉ là thuộc tính của riêng ông, vì sau này khi
được biết các anh chị em ruột của ông, tôi thấy những dấu vết ấy ở họ
còn rõ nét hơn. Đó là một cái gì đó giật giọng và khàn khàn trong
những chữ cuối của một câu vui, một cái gì nhỏ đi và tắt dần ở cuối
một câu buồn. Swann, vốn quen biết bậc thầy này từ hồi còn nhỏ, kể
với tôi rằng dạo ấy, giọng của Bergotte cũng như của anh chị em ông đã
có những ngữ điệu có thể nói là đặc thù gia đình, khi thì la thét vui
cuồng, lúc lại buồn bã thầm thì chậm rãi, và rằng trong căn phòng họ
cùng nhau vui chơi, Bergotte là người diễn tấu phần của mình hăng hơn
tất cả trong cái hợp xướng chung, hết đinh tai nhức óc lại não nề lả
lướt. Dù có đặc biệt đến mấy, mọi tiếng động phát ra từ con người đều
là thoảng qua và không tồn tại lâu hơn con người. Nhưng sự thể lại
không như vậy với cách phát âm của gia đình Bergotte. Mặc dù thật
khó mà hiểu được, ngay cả trong vở opéra Những ca sĩ bậc thầy, làm
sao một nghệ sĩ có thể tạo ra âm nhạc khi nghe chim hót líu lo
, tuy
nhiên Bergotte đã biết chuyển thể và cố định trong văn của mình cái
cách ngân dài trên những chữ lặp đi lặp lại thành những tiếng reo vui,
hay nhỏ giọt thành những tiếng thở dài buồn bã. Trong sách của ông, có
những phần kết thúc câu chồng chất những âm kéo dài, như ở những
hòa thanh cuối của một khúc dạo đầu opéra chưa đành chấm dứt, vẫn
tấu lại nhịp kết trác tuyệt của nó nhiều lần cho tới khi nhạc trưởng đặt
chiếc đũa chỉ huy xuống; sau này, chính ở những phần cuối câu ấy mà
tôi tìm thấy cái tương đương âm nhạc với “bộ đồng” trong hệ phát âm
đặc trưng của gia đình Bergotte. Nhưng riêng đối với ông, từ khi ông
chuyển những âm đặc thù ấy vào văn của mình, một cách vô thức, ông
thôi không dùng chúng trong hành ngôn nữa. Từ ngày ông bắt đầu viết
văn và nhất là từ khi tôi được quen biết ông, giọng nói của ông đã vĩnh
viễn “giải phối khí”.