đáy cơ thể của riêng mình, đều dõi mắt vào, như ở rạp hát, mỗi người
đều có chỗ của mình, trái lại, chỉ có một sân khấu duy nhất, cố nhiên,
những ý tưởng rắm rối mà tôi thích tháo gỡ tìm hiểu không phải là
những ý tưởng mà Bergotte thường đào sâu trong tác phẩm của ông.
Nhưng nếu như cả ông ta và tôi đều có thể vận dụng cùng một tri giác,
thì khi nghe tôi phát biểu những ý của mình, ông phải nhớ chúng, thích
chúng, mỉm cười với chúng chứ, dễ thường vẫn hướng con mắt nội tâm
- bất chấp tôi giả định như thế nào - dõi vào một phần của tri giác khác
hẳn cái phần mà ông cắt một khoảnh đưa vào sách của mình, mà dựa
vào đó tôi đã tưởng tượng ra toàn bộ thế giới tinh thần của ông. Giống
như những giáo sĩ, vốn giàu trải nghiệm lớn nhất về tâm hồn, có thể
hơn ai hết tha thứ cho những tội lỗi họ không bao giờ phạm, những
thiên tài, vốn giàu trải nghiệm nhất về tri giác, có thể hơn ai hết hiểu
được những ý tưởng đối lập nhất với những ý tưởng tạo nên cốt lõi
những tác phẩm của họ. Lẽ ra tôi đã phải tự nhủ tất cả những điều ấy
(mặc dù chúng chẳng dễ chịu gì, vì thiện tâm của những con người cao
thượng thường có hệ quả là gây ngộ nhận và cừu địch ở những kẻ tầm
thường; vậy đó, niềm sung sướng được tiếp xúc với sự ưu nhã của một
nhà văn lớn - cùng lắm thì qua tác phẩm - chẳng thấm gì so với nỗi đau
đớn vì sự thù địch của một người đàn bà ta đã chọn làm vợ không phải
vì người ấy thông minh, mà bởi ta đã không thể không yêu cô ta). Lẽ ra
tôi đã phải tự nhủ thế, nhưng tôi không nghĩ ra, tôi đã đinh ninh rằng
mình có vẻ ngu xuẩn trước mắt Bergotte thì Gilberte thì thầm vào tai
tôi:
“Tôi tràn trề vui sướng vì anh đã chinh phục người bạn lớn của gia
đình chúng tôi, ông Bergotte. Ông đã nói với má là ông thấy anh cực kỳ
thông minh.”
“Chúng ta đi đâu bây giờ?” tôi hỏi Gilberte.
“Ồ, đi chỗ nào mình muốn, tôi thì thế nào cũng được, anh biết đấy, đi
đây, đi đó...”
Nhưng từ khi xảy ra sự việc vào hôm giỗ ông nội nàng, tôi cứ tự hỏi
liệu tính cách của Gilberte có khác với điều tôi tưởng, liệu cái thái độ