Vua sai triệu các quan trong hội đồng khảo viện vào cung Cảnh Linh
và truyền áp phách. Kết quả là cả nhà vua và các quan khảo viện đều chấm
trùng cho đỗ hai trạng nguyên, một bảng nhãn và một thám hoa lang. Truy
xét quê quán mới biết vị trạng nguyên thứ nhất là Trần Quốc Lặc người
huyện Thanh Lâm
[42]
, châu Hồng; trạng nguyên thứ hai là Trương Xán
người Hoành sơn, châu Bố Chính
[43]
; bảng nhãn là Chu Hinh người huyện
Tế Giang
[44]
, lộ Bắc Giang; thám hoa lang là Trần Uyên người huyện
Đường Hào
[45]
, châu Hồng.
Khi thấy Trương Xán là người châu Bố Chính nhà vua hơi phân vân
một chút. Ngài suy nghĩ rồi phán: Từ nay phân chia địa giới để gọi: từ
Trường Yên trở ra bắc gọi là Kinh, từ Thanh Hóa trở vào gọi là Trại. Vậy
Trần Quốc Lặc là Kinh trạng nguyên, Trương Xán là Trại trạng nguyên.
Và trong số bốn mươi ba người đỗ thái học sinh
[46]
người Kinh và một người Trại. Tất cả mọi người vừa thi đỗ, đều được bổ
dụng ngay theo thứ bậc khác nhau.
Ngày kéo bảng đề danh, sĩ tử vui buồn thật khó tả. Cái người ngồi ở
hàng nước đã đứng tuổi, than vãn với mọi người rằng lỡ khoa thi năm Đinh
Mùi phải chờ mất đúng chín năm, người ấy lại chính là trạng nguyên Trần
Quốc Lặc. Những ai ngồi quán nước cùng ông, khi nhận ra đều không khỏi
kinh ngạc.
Ngay sau cuộc thi ít lâu, vua có dụ cho Nguyễn Hiền về bộ Công,
chuyên xem xét việc chế tác các đồ như trục xe, bánh xe, đóng các loại tàu
thuyền đi biển và khí giới dùng trong quân, kể cả máy bắn đá.
Vua cũng dụ cho Lê Văn Hưu về Quốc sử viện để lo việc biên tu quốc
sử.