liên hiệp với Tưởng Giới Thạch đánh Nhật. Bác bảo đó là
một cơ hội giáo dục quần chúng nhân dân rất lớn. Nếu
không kết hợp với Tưởng Giới Thạch thì Tưởng chẳng mấy
lúc sẽ đầu hàng Nhật. Kết hợp với nó, ngoài thì ngăn được
nó sớm đầu hàng, trong thì phân hóa được hàng ngũ nó.
Những phần tử yêu nước trong hàng ngũ nó sẽ thấy rõ bộ
mặt nó mà bỏ nó sang hàng ngũ ta. Một số tối phản động
chủ trương đầu hàng sẽ xuất đầu lộ diện như Uông Tinh Vệ.
Tưởng Giới Thạch thì một mặt đi với ta, một mặt lùng cán
bộ ta, khủng bố ta, nhưng quần chúng nhân dân Trung
Quốc đông đảo sẽ giác ngộ, lớn mạnh và kiên quyết chống
đế quốc xâm lược. Bác triệu tập một hội nghị bàn việc về
nước. Trước đó, ông Hồ Ngọc Lãm và anh Hoàng Văn Hoan
có lập ra “Việt Nam độc lập đồng minh hội” ở Nam Kinh để
hoạt động. Hội nghị bàn nên phục hồi Hội đó, mời ông Lãm
làm chủ nhiệm và cử đồng chí Lâm Bá Kiệt (anh Đồng) là
phó. Lập xong được Biện sự xứ thì bọn Trương Bội Công
không ở Liễu Châu nữa mà đã về Tĩnh Tây. Về đấy, Trương
Bội Công đón được một số thanh niên trong nước ra, trong
đó có các anh Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm, Bằng Giang, Cổ
Vân… Đó là những anh em thanh niên của ta, hoạt động
trong nước, bị Pháp, Nhật khủng bố phải chạy. Tôi được tin
ấy, gặp Bác xin ý kiến, Bác bảo anh Giáp, anh Cao Hồng
Lĩnh và tôi đi tìm họ.
Cuối tháng 11-1940, chúng tôi về đến Tĩnh Tây bắt mối với
các anh em thanh niên trong nước ra định tìm đường đánh
thông về nước và tìm địa điểm cho Bác về. Sau khi gặp
nhau rồi báo tin lên Bác. Bác liền từ Quế Lâm đi ô tô về
Nam Ninh và từ Nam Ninh đi thuyền về Điền Đông. Trong
thuyền đông người, chỉ có anh Đồng, anh Kiên, anh Hoan
và cụ Cáp là biết Bác. Bác đóng vai trò một “Tân văn ký