đã làm được những công việc lớn lao hơn. Ý nghĩ của tôi về sự nghiệp của
một vĩ nhân không hề vươn tới tất cả cái đám quan chức của Vương Quốc
Anh này. Còn Conway thì đúng là hoặc phải là một vĩ nhân. Anh và tôi,
chúng ta đều biết Conway, và tôi nghĩ mình đã không phóng đại khi tôi nói
đây là một sự kiện mà chúng ta sẽ không bao giờ quên. Ngay khi tôi và anh
ta gặp nhau tại giữa đất nước Trung Quốc, lúc ấy đầu óc anh ta rỗng không,
cái quá khứ của anh còn là một điều bí ẩn, vậy mà tôi vẫn thấy sức hấp dẫn
ở Conway."
Rutherford ngừng lại hồi tưởng rồi nói tiếp: "Như anh có thể hình dung
thấy, trên tàu chúng tôi nối lại tình thân bạn bè trước kia. Tôi nói cho
Conway rất nhiều những điều tôi biết về anh và Conway lắng nghe với thái
độ chăm chú dường như hơi vô lý. Anh nhớ lại rất rõ những gì đã xảy ra với
anh từ ngày anh đến Trùng Khánh và có điều này hẳn cũng có thể khiến anh
quan tâm là Conway không hề quên ngoại ngữ anh biết. Chẳng hạn, anh bảo
tôi rằng, anh biết hẳn anh phải đã có làm một cái gì đó ở Ấn Độ, vì anh có
thể nói tiếng Hindu."
"Tại Yokohama, tàu thủy lấy thêm đầy khách; trong số hành khách mới
lên có nghệ sĩ dương cầm Sieveking, trên đường đi biểu diễn hòa nhạc tại
Hoa Kỳ. Anh ta ngồi chung bàn ăn với chúng tôi và thỉnh thoảng nói chuyện
với Conway bằng tiếng Đức. Điều này chứng tỏ bề ngoài Conway rất bình
thường. Ngoài cái chứng bệnh quên mà trong lúc trò chuyện thường không
thấy, thì anh không có chứng bệnh gì khác."
"Rời Nhật Bản được mấy đêm, người ta mời nghệ sĩ Sieveking biểu
diễn độc tấu một buổi trên tàu. Conway cùng tôi đã đi dự nghe. Tất nhiên,
Sieveking đã biểu diễn khá giỏi mấy tác phẩm của Brahms mà Scarlatli cùng
rất nhiều bản nhạc của Chopin. Một hai lần tôi đưa mắt nhìn Conway và
thấy anh nghe rất thích thú, điều này cũng rất tự nhiên vì trước kia anh vốn
là người sành âm nhạc. Vào cuối chương trình, buổi biểu diễn kéo dài vì
khán giả yêu cầu diễn lại nhiều lần. Sieveking, theo tôi nghĩ, đã nhã nhặn
vui vẻ chiều lòng đám người hâm mộ lúc ấy đang quây quanh cấy đàn