mắt và bắt đầu nói lắp bắp. Bốn người cúi xuống sát người anh ta, lắng nghe
nói những tiếng vô nghĩa trừ có Conway là hiểu được và chốc chốc anh lại
đáp lời. Sau một lúc, anh phi công trở nên mỗi lúc một yếu hơn, nói mỗi lúc
một khó khăn và cuối cùng tắt thở. Lúc ấy vào lúc nửa buổi.
Conway liền quay lại nói với mấy người bạn: "Tôi rất buồn phải nói
rằng anh ta đã nói với tôi rất ít - tôi muốn nói ít là so với những điều chúng
ta muốn biết. Anh ta chỉ nói rằng giờ đây chúng ta ở đất Tây Tạng, điều này
thì đã rõ. Anh ta không nói mạch lạc về nguyên do anh ta đã đưa chúng ta
đến đây, nhưng hình như anh ta biết nơi này. Anh ta nói một thứ tiếng Trung
Quốc mà tôi nghe không hiểu lắm, song tôi nghĩ anh ta có nói gì đó về một
tu viện Lama ở gần đây, dọc theo thưng lũng, và tôi hiểu được, là đến đây,
chúng ta sẽ có thức ăn và nhà ở. Anh ta gọi nơi đó là Shangri-La. La, tiếng
Mông Cổ nghĩa là đèo. Anh ta hết sức nhấn mạnh rằng chúng ta cần phải
đến đó."
"Thế thì tôi lại thấy hình như chẳng có lý do nào để chúng ta cần phải
đến đây." Mallinson nói. "Suy cho cùng, có thế thằng cha ấy nó loạn óc. Có
đúng không?"
"Về điều ấy hẳn chú biết cũng rõ như tôi. Nhưng nếu không đến đây thì
chúng ta đi đâu bấy giờ?"
"Tùy anh, tôi không quan tâm. Tất cả những gì tôi biết chắc là cái
Shangri-La này nêu ở phía kia, thì hẳn phải cách biệt văn minh thêm mấy
dặm nữa. Tôi sẽ lấy làm sung sướng nếu chúng ta thu ngắn quãng đường lại,
chứ đừng kéo dài ra. Mẹ kiếp! Anh không mang chúng tôi trở về chăng?"
Conway nhẫn nại đáp: "Mallinson, tôi thấy chú không hiểu rõ hoàn
cảnh chúng ta hiện nay. Chúng ta đang ở một vùng mà không ai biết đến
lắm, trừ có điều đi đến đây là một việc làm rất khó khăn và nguy hiểm, thậm
chí cả đối với một đoàn thám hiểm có trang bị đầy đủ. Với lại hàng mấy
trăm dặm của cái xứ sở này đang bao quanh chúng ta thì cái khái niệm đi bộ
trở về Peshawar, tôi thấy không có chút hy vọng nào."