đâu. Ông nên đi kiếm việc khác thì hơn.
Gã quay ngoắt đi, bước tới quầy ăn. Cô gái tóc vàng hung chạy sang
buồng thay quần áo. Nhạc công đóng nắp đàn dương cầm.
Người xin thử chân bạn nhảy uể oải vắt áo khoác qua vai, ấn sụp mũ
xuống trán, bước ra cửa. Thằng bé hầu bàn bưng một khay bánh xăng-uych
đi ngang cạnh y, mùi thức ăn ngon lành thơm nức xộc vào mũi.
Đường phố ngập nắng mặt trời. Đã gần trưa rồi. Người lác đác. Y chậm
rãi bước về phía vườn Uaienki. Tới góc phố Pienkna y dừng lại, thọc tay
vào túi áo gilê rút ra một đồng tiền.
“Đồng cuối cùng!” - Y nghĩ bụng.
Y bước tới quầy nhỏ bán thuốc lá.
– Hai điếu “Grand Prix”.
Y đếm số tiền trả lại và thẫn thờ đứng ở bến đợi tàu điện. Một lão già
nào đó chống chiếc ba toong đưa cặp mắt mờ đục nhìn y. Một bà quý phái
với mươi chiếc gói nhỏ trên tay chốc chốc lại ngóng tàu.
Bên cạnh y, một thằng bé nách cặp quyển sách to tướng đang sốt ruột
quanh quẩn đợi tàu. Thực ra, đó cũng không phải là quyển sách mà là một
chiếc cặp bọc vải gai màu xám: những khi thằng bé quay nghiêng, có thể
nhìn thấy rõ một tập thư đựng trong cặp và gáy của vài chục tờ biên lai ký
nhận.
Y nhìn thằng bé và chợt nhớ rằng hồi trước chiến tranh
y cũng đã từng
mang một chiếc cặp như thế khi còn làm chân chạy giấy cho ông chưởng
khế Vinđer, trước khi xin được làm nhân viên bưu chính ở Uyxkốp. Có điều
ông chưởng khế bao giờ cũng dùng tuyền phong bì màu xanh thẫm, còn
những chiếc phong bì này lại màu trắng.
Tàu số 9 đến, thằng bé nhảy tót lên bậc sau trong lúc tàu chưa dừng hẳn,
chiếc cặp bị va vào tay vịn, thư rơi tung tóe cả.