DƯƠNG GIA TƯỚNG DIỄN NGHĨA - Trang 360

Hoạch Lộc là Bắc các địa khu nay thuộc Hà Bắc.
Bài thơ này trích trong tập "Kỉ Hợi Tuế” của thi nhân cuối đời Đường là
Tào Tùng, miêu tả sự ác liệt của chiến tranh. Tiều là người đốn củi, Tô là
cắt cỏ. Nghĩa rộng của tiều tô là chỉ công việc nặng nhọc. Bằng có nghĩa là
xin.
Phúc đới chi nhân: Vốn là chỉ ân đức của đất trời nuôi dưỡng vạn vật, ở
đây mượn dùng để chỉ ơn vua.
– Bại nữu: chiến bại. Nữu: chảy máu, chảy máu cam
– Toại Thành: Trị sở nằm ở phía Tây Từ thủy - Hà Bắc ngày nay. Tống
Chân Tông Cảnh Đức nguyên niên (1004), Dương Diên Chiêu giữ thành
này, quân Liêu vây đánh hơn trăm trận không hạ được, do đó còn được gọi
là "Thiết Toại thành".
– Hám vi: tức là đứng nhìn quân Liêu bị vây. Vây: Chỉ giữ một góc thành.
– Ninh ngả chí nhân: Tự mình an ổn, để người ở bên ngoài đến quy thuận.
Chí: thu phục.
Địa dư: Thổ địa, đất.
– Võ Thắng quân tiết độ sứ: Võ thắng là tên đất, nay thuộc phía Đông Tứ
Xuyên, hạ lưu sông Gia Lăng. Tiết độ sứ ở thời Tống chỉ là hàm tượng
trưng, không có thật quyền.
Khấu Chuẩn (961 - 1023): Tự là Bình Trọng, người Hoa châu Hạ Phong
(nay là Thiểm Tây - Hoài Nam) xuất thân tiến sĩ, trải thờ Thái Tôn, Chơn
Tôn hai triều, từng hai lần làm thừa tướng. Nhân Tôn truy phong Thái
Quốc Công, Ích Trung Mẫn.
Trần Đoàn (? - 989): Tự là Đồ Nam, người Chân Nguyên Bác Châu (nay
thuộc Hà Nam Lộc Ấp), là đạo sĩ thời Ngũ Đại và đầu Tống.
Trường Hưng: Niên hiệu của hậu Đường Minh Tông (năm 930 - 933 CN)
Phục khí tịch cốc: phục khí nghĩa là phương pháp hô hấp dưỡng sinh.
Tịch cốc: Không ăn hoặc về cơ bản là không ăn ngũ cốc. Đều là phương
phấp tu luyện của Đạo giáo.
Bồ (nguyên văn): tụ tập uống rượu.
Nghiêm yên (nguyên văn): điển lễ tế trời vào mùa Đông.
– Man Mạch: Nghĩa rộng chỉ một số dân tộc khác ở biên giới. Man nguyên

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.