lí; tài lực phóng túng cơ hồ như vô cùng. Hai anh thực là kẻ sĩ kì dị, siêu
việt, mà Tô Quân thực đáng gọi là biết người.
Ít lâu sau, Lê Sinh được bổ làm Tư pháp tham quân
ở phủ Giang
Lăng, khi sắp lên đường, xin tôi ít lời tặng biệt.
Tôi nói: “Cái tình tôi biết anh đã rõ ràng ở trong lòng, vậy mà lại đi dùng
ngôn ngữ để chuốc cái bề ngoài nữa ư?” Lê Sinh nói: “Tôi với An Sinh học
lối văn đó
, người trong làng xóm đều cười là vu khoát
, nay xin thầy
ít lời để giải trừ sự mê hoặc của người trong làng xóm”. Nghe nói, tôi tự
nghĩ thầm mà cười. Trong đời mà vu khoát có ai hơn tôi không? Biết tin
theo cổ mà không biết hợp với đời; biết gắng theo đạo mà không biết hòa
với thế tục, vì vậy mà tôi bị khốn đốn đến nay mà không tự biết. Trong đời
mà vu khoát, có ai hơn tôi không? Nay cái vu khoát của Lê Sinh chỉ là văn
chương không gần thế tục, cái vu khoát đó là nhỏ, cái hại chỉ là bị làng xóm
cười chê; còn cái vu khoát của tôi mới lớn, nếu Lê Sinh đem lời tôi về làng,
thì tội còn nặng hơn nữa, há chỉ bị cười chê mà thôi?
Như vậy thì tôi đối với Lê Sinh, nên có lời nào để tặng đây? Bảo rằng cái
vu khoát của tôi là thiện thì cái hại như vậy đó; bảo rằng nó bất thiện, thì
hễ hợp với đời tất trái với cổ, hễ hòa với thế tục tất phải bỏ đạo. Lê Sinh
đừng gấp giải trừ sự mê hoặc của làng xóm, hãy tự lựa lấy một trong hai
con đường đó đã.
Nghĩ vậy rồi tôi viết bài tự này để tặng hai anh Lê, An, lại gởi Tô Quân
xem ý kiến của tôi như vậy có phải không?
NHẬN ĐỊNH
Bài này hay ở bút pháp uyển chuyển: tuy tặng lời tựa mà như không tặng;
tuy không khuyên nên có thái độ ra sao mà kì thực có ngụ ý khuyên rồi; lại
thêm trong khi khen Lê Sinh và An Sinh, tác giả đã khéo đề cao bạn là Tô
Thức, đầu bài nhắc tới bạn, cuối bài lại nhắc tới bạn. Gọn mà mạch lạc chặt
chẽ, mở và kết tự nhiên.