về việc tự do tư tưởng vẫn có chỗ đứng trong hệ thống toàn trị, thì “thái độ
khoa học” của ông khẳng định chắc chắn rằng “sẽ phải có các thông tin có
giá trị về tất cả các vấn đề mà không cần phải là chuyên gia mới hiếu
được”, kể cả vấn đề “chủ nghĩa toàn trị có thể song hành với tự do tư tưởng
hay không”.
Muốn khảo sát một cách đầy đủ các xu xướng toàn trị khác nhau ở Anh
cần phải chú ý đến những nỗ lực khác nhau nhằm tạo ra một kiểu chủ nghĩa
xã hội cho các tầng lớp trung lưu, dù không nghi ngờ gì rằng các tác giả
của chúng không nhận thức được, một xu hướng giống một cách đáng lo
ngại với những gì đã diễn ra ở Đức thời trước khi Hitler nắm được chính
quyền
. Còn nếu chúng ta quan tâm đến các phong trào chính trị thì
chúng ta phải xem xét các tổ chức mới như phong trào Forward-March
(Tiến lên) hay phong trào Common-Wealth (Thịnh vượng Chung) của Sir
Richard Acland, tác giả cuốn Unser Kampi (Cuộc đấu tranh, của chúng ta,
hay các hoạt động của “ủy hội 1941” của ông J. B. Priestley, có thời liên
kết với phong trào bên trên. Nhưng mặc dù sẽ là sai lầm nếu coi thường các
hiện tượng có tính triệu chứng nói trên, chúng vẫn không thể được coi là
các lực lượng chính trị quan trọng. Ngoài những ảnh hưởng mang tính trí
tuệ mà chúng tôi đã dẫn ra bằng hai thí dụ bên trên, động lực chủ yếu đưa
đến chủ nghĩa toàn trị xuất phát từ hai nhóm quyền lực lớn: tư bản được tổ
chức và lao động được tổ chức. Có lẽ mối đe dọa lớn nhất chính là chính
sách của hai nhóm quyền lực lớn nhất này lại đang hướng về cùng một
phía.
Hai nhóm này cùng ủng hộ việc tổ chức độc quyền nền công nghiệp nên
thường phối hợp hành động với nhau; đây là xu hướng cực kì nguy hiểm.
Không có lí do để tin rằng phong trào này là tất yếu, nhưng nếu chúng ta
tiếp tục đi theo con đường mà chúng ta đã đặt chân lên thì nó nhất định sẽ
dẫn chúng ta tới chế độ toàn trị.
Dĩ nhiên là phong trào này chủ yếu được hoạch định bởi các nhà tư bản,
những người tổ chức ra các công ty độc quyền, và vì thế họ chính là nguồn