nghĩa” đòi xoá bỏ thị trường, tập trung hết quyền lực điều hành vào một
Trung tâm Kế hoạch Trung ương do nhà nước nắm giữ. Hayek cho rằng
chủ trương này hết sức sai lầm là do nó gán cho cái trung tâm ấy một thứ
khả năng mà nó không thể có được: tự cho mình có thể nắm bắt được tất cả
những kiến thức, những nhu cầu của xã hội, những điều kiện cần thiết để
hoạt động, căn cứ vào đó đề ra đường lối sử dụng và phân phối tài nguyên
tốt hơn thị trường thường vốn bị xem là chứa đầy bất trắc và nhiều hỗn
loạn. Việc phê phán liên hệ đến cái phạm trù gọi là “xã hội chủ nghĩa” này
có nhiều điều phải bàn cãi, nhưng riêng với cái mô hình kinh tế kế hoạch
hoá của những nước gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” thì có thể khẳng
định ý kiến của Hayek là đúng hoàn toàn. Cái cơ chế ấy không những đẻ ra
chế độ quan liêu xơ cứng, xa rời thực tế, bất lực trong phát triển mà còn là
cơ sở để dựng nên một chế độ chính trị chuyên chế, biến cả đất nước thành
một trại lính nữa.
Thật ra, những ý kiến loại như trên không có gì đặc sắc lắm vì cũng đã
có nhiều người nói rồi (thí dụ mô hình xã hội chủ nghĩa nhà nước Xôviết đã
bị chính những người cộng sản phê phán là “duy ý chí”). Điều đáng quan
tâm hơn ở đây là trong khi vận dụng để giải quyết hàng loạt những vấn đề
khác, Hayek đã đưa quan điểm gọi là chống “sự ngạo mạn của lý trí” vượt
quá xa tầm mức của nó. Không ngừng đặt giới hạn cho lý trí, nhưng trong
biện luận Hayek đã đẩy đến chỗ triệt để cái vai trò hầu như là số không của
lý trí trong đời sống tinh thần của con người, sự lệ thuộc hầu như toàn bộ
của lý trí vào tiềm thức, vào những kinh nghiệm do vô thức tạo nên, bỏ qua
hoàn toàn sự xuất hiện của lý trí như bước đột phá trong quá trình hình
thành ý thức con người với các chức năng đặc biệt của nó là thức tỉnh, phản
tư, tổng kết, dự báo trong nhận thức từ đó đưa ra những dự phóng cải tạo
hiện thực, cải tạo thế giới, Steven Horwitz (một người ủng hộ Hayek) gọi
học thuyết của Hayek là một chủ nghĩa tự do không duy lý
rationalist liberalism), theo đó nếu chúng ta có nói đến một thứ chủ nghĩa
phi lý tính (l’irrationalisme) trong hệ thống lý luận của ông thì không có gì
là không thuận lý.