khiến tôi đã đưa ra một số nhượng bộ khác nhau mà bây giờ tôi nghĩ là
không chính đáng. Dĩ nhiên là tôi cũng chưa nhận thức được một cách đầy
đủ rằng trong một số lĩnh vực nhiều việc đã tồi tệ đến mức nào. Thí dụ, tôi
vẫn còn coi là một câu mang tính tu từ khi hỏi (trang 176) nếu Hitler nắm
được quyền lực vô hạn theo đúng các thủ tục hợp hiến “ai dám nói rằng ở
Đức vẫn có Pháp trị?” để rồi sau đó mới biết rằng các giáo sư Hans Kelsen
và Harold J. Laski và có thể còn nhiều luật gia theo đường lối xã hội chủ
nghĩa cũng như các nhà chính trị học đi theo đường lối của những tác gia
đầy ảnh hưởng này đã ủng hộ chính điều đó. Nói chung việc nghiên cứu
các xu hướng tư duy và định chế đương thời đã làm gia tăng sự quan ngại
và lo lắng của tôi. Ảnh hưởng của các tư tưởng xã hội chủ nghĩa và niềm
tin ngây thơ vào những ý định tốt đẹp của những kẻ nắm giữ quyền lực
toàn trị đã không ngừng gia tăng kể từ ngày tôi viết xong cuốn sách này.
Một thời gian dài tôi đã lấy làm tự ái vì đã trở nên nổi tiếng nhờ cuốn
sách mà tôi xem là cuốn bàn về chính trị đương thời thay vì là nhờ công
trình khoa học thực sự của tôi. Nhưng sau khi suy xét lại những điều viết
trong suốt 30 năm nghiên cứu sau này về những vấn đề đặt ra lúc đó, tôi
không còn tự ái nữa. Mặc dù cuốn sách có thể chứa những điều mà lúc đó
tôi không thể chứng minh một cách thuyết phục, nó vẫn là một cố gắng
thực sự trong việc đi tìm chân lí, cái chân lí mà tôi tin rằng đã tạo ra sự
sáng suốt giúp cho ngay cả những người không đồng tình với tôi tránh
được mối nguy hiểm chết người.
F. A. Hayek
Chú thích:
Nazi
(Nazism)
hay
National
Socialism
(tiếng
Đức
Nationalsozialismus) là những từ chỉ hệ tư tưởng và hoạt động của Đảng
Nazi dưới thời Adolf Hitler, cũng như chính sách của chính phủ Nazi Đức,
thường gọi là Đế chế thứ III, từ năm 1933 đến năm 1945. Để cho nhất
quán, từ Nazi sẽ được dịch thành Quốc xã, còn National Socialism thành
Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia - ND