không biết, chúng tôi cũng chẳng thiệt thòi gì hơn những người đã đến
được đường sắt.
Trong vòng một hai giờ gì đó, chúng tôi cũng dần dần leo lên được hàng
đầu. Chúng tôi đã bắt đầu thấy hy vọng chấm dứt cơn đợi chờ. Chuyến xe
tới sẽ là của chúng tôi.
Không có xe nào đến cả. Mười một giờ rưỡi; trong khi mưa rơi lộp độp trên
áo mưa của chúng tôi và dưới đường các suối nước bùn chẩy cuồn cuộn
dọc lề đường, người ta chính thức loan báo: không còn xe! Thời tiết xấu, sự
lưu thông tạm ngưng cho đến mai. Không còn gì cho đêm nay. Gần như thể
trút được gánh nặng, chúng tôi bỏ đi tìm một chỗ ngủ qua đêm. Đúng là
một nỗi thất vọng vì hy vọng cứ giảm dần theo thời gian.
Chúng tôi trú tạm trong ngôi trường trước kia được dùng làm văn phòng
của Bộ Tổng Tư Lệnh...
Sáng hôm sau. Phía ngoài khung cửa kính, trời lạnh và xám ngắt sau lớp
sương mù. Không khí im phắt và lạnh ngắt. Cơn mưa đã dứt. Có những đứa
trẻ con khóc ré lên khi thức dậy. Nhưng đứa nhỏ được ấn vội cái vú vào
mồm...
Tôi thức giấc, không khoẻ ra được bao nhiêu và người lại hực sốt. Tôi
không đói cồn cào như Pao, nhưng tôi cũng đi ra phố kiếm cái gì ăn cùng
với chàng. Chúng tôi đi dọc theo con đường làng, băng qua trước những
căn lều tranh trước kia đã từng là những quán ăn phồn thịnh, nuôi sống cả
trăm người mỗi ngày. Những ụ bếp bị phá, những chảo chiên bị gỡ đi.
Chúng tôi đi qua những quán nước cửa đóng im lìm và đến trước Đại
Khách Sạn Nam-Ninh. Nó đã trở thành kỳ cục và xa lạ. Sân trước vắng
hoe, cửa phòng đều mở toang hoác. Trước căn phòng của chúng tôi, mấy
nhánh cúc trụi lá xác sơ vì có ai đã vặt hết cả hoa. Chúng tôi đi rảo quanh
khắp nơi mà chẳng có gì ngăn cản trừ một người hầu độc nhất và người gác
cửa thản nhiên coi chúng tôi như là không có. Bếp trụi không lửa và tran đồ