ăn trống rỗng. Các đầu bếp đều đã đi cả. Chúng tôi có cảm tưởng như mình
là những bóng ma trở về ám quẻ nơi đây sau nhiều năm xa cách. Chúng tôi
tưởng như là mình vô hình. Nam-Ninh đã quên hẳn chúng tôi.
Chúng tôi trở về trường. Vẫn không có xe. Sương mù đã tan và mặt trời đã
lên cao, sáng chói lọi, tròn xoe và nhỏ như một khuôn trăng. Còi báo động
buổi sáng thường lệ rú lên. Mọi người tản mát ra ngoài đồng. Pao và tôi
trèo lên lưng đồi và chúng tôi nằm ngã trên cỏ ướt, dưới bóng cây. Chúng
tôi giải khát bằng nước suối. Đến trưa mới sưởi ấm đôi chút. Chúng tôi ngủ
được một lát. Tất cả những điều đó rối tung trong đầu tôi, lẫn lộn với các
cơn mê bởi vì tôi thấy đúng là mình bị bệnh và hơi mê sảng. Đến khoảng
giữa trưa, còi dứt báo động hú lên. Chúng tôi lại trở lại vệ đường. Đến ba
giờ mới có một chuyến xe và người ta bán cho chúng tôi hai chỗ. Đó là một
chiếc xe biến chế bằng gỗ đặt trên một cái sườn đã quá cũ và hư nát. Động
cơ phì phò như bị bệnh đau tim, nấc lên từng chập. Chạy với vận tốc ba
mươi cây số một giờ mà nó rên rỉ, các khớp nối kêu răng rắc như sắp sửa
tung ra thành hàng ngàn mảnh đến nơi. Trên cái đoạn đường gồ ghề và sóc
tung người này, nó di chuyển khó nhọc chẳng khác chi một chiếc thuyền
buồm bất động giữa cơn cuồng phong. Chúng tôi bị lắc qua trao lại, bắn
tung lên khỏi ghế, có khi đầu va cả vào mui xe.
Hàng ghế phía trước có một gia đình sỹ quan gồm vợ chồng và hai đứa con
nhỏ. Người chồng cố hết sức che chở cho người vợ đỡ bị dằn sóc. Người
đàn bà bíu chặt hai tay lên thành cửa sổ trụi lũi. Tôi biết ngay là bà ta đang
mang thai đã sắp tới ngày sinh. Đột nhiên mặt bà ta xám xanh lại, vặn
người trong cơn đau cực độ. Bà ta hổn hển nói:
- Nếu cứ tiếp tục như thế này mãi thì chẳng bao lâu nữa đâu!
Dù vậy chúng tôi vẫn tiếp tục chạy như thế khoảng nửa giờ nữa. Rồi xe táp
vào lề đường và ngừng lại. Trong màn yên tĩnh bất thường đó, chúng tôi
nghe thấy tiếng máy bay ù ù ở đằng xa.