Đến sáng ngày thứ tư người ta báo cho chúng tôi biết là chuyến tầu sẽ khởi
hành vào lúc bốn giờ chiều. Tin giải thoát này được đón mừng y như là
ngọn gió đối với chiếc thuyền buồm bị chặn đứng vì kẹt cứng trong đám
rong trên biển Sagasse(*). Nó thổi tan cái cảm tưởng lạc lõng, vô công rồi
nghề đã ám ảnh chúng tôi suốt mấy ngày chờ đợi. Chúng tôi cuốn mùng
mền, sắp xếp hành trang và từ giả chuột, từ giả ớt, từ giả hố phân.
Chúng tôi nối đuôi nhau đi dọc theo bờ ruộng. Từ xa chúng tôi đã thấy đám
người lố nhố chật ních cả làng, trông giống như một đàn bọ đen nhung
nhúc, một đàn kiến, đàn ong. Không phải chỉ có các bạn đồng hành trong
Bộ Tham Mưu không thôi, chúng tôi còn có cả đám dân tản cư ở Trường-
Sa hay ở các vùng bị chiếm đóng khác xa hơn về phía Bắc...
Chúng tôi cũng đến được toa tầu của chúng tôi, một toa hạng nhì với các
hàng ghế gỗ dài xếp đối diện nhau từng đôi một. Khi toa tầu đã chật ních
không còn ghế nào trống nữa và khi đám trẻ con được dồn vào một đống tại
những chỗ không có ghế, người ta mới chất hành lý lên, nào dưới sàn, nào
trên đầu và các bọc hành trang lớn tướng, lủng lẳng trong màn lưới ngăn
ngay trên đầu chúng tôi cách dễ sợ... Sau khi phía trong toa xe đã chất đầy
người và hành lý, đám dân chạy tản cư ùa lên xe, trèo lên nóc toa, tràn vào
đầy cả lối đi, đứng chen chúc trên các bực thang lên xuống làm thành một
khối chặt cứng đến nỗi không còn cách gì để mà nhúc nhích nữa. Chẳng có
thứ tự, hàng lối gì cả. Thực ra thì chính viên sỹ quan lo việc chuyển vận
cũng phải đi tìm lấy một chỗ vào phút chót. Bởi chẳng còn chỗ nào, anh ta
đành phải đi hết cuộc hành trình cho tới Quế-Lâm trong phòng máy với tài
công.
Chúng tôi ngồi chịu trận suốt từ bốn giờ cho đến nửa đêm. Mặt trời đã rơi
xuống nóc xe suốt ngày và phía trong đúng là một cái lò lửa. Khi trời đổ tối
người ta treo một cái đèn dầu lên. Đám trẻ con khóc dấm dứt, mệt mỏi và
đói khát hay nằm vắt ngang trên đống hành lý ngủ vùi. Gia đình ở hàng
hiên lại đi chung toa với chúng tôi. Người mẹ vạch áo chìa vú cho một đứa