nói một câu thật thô tục rồi đứng trân ra đó cười, ý đợi chúng tôi cùng cười
theo. Tôi không hiểu hết nghĩa câu nói nhưng Pao chẳng nói một tiếng nắm
vai mụ đẩy ra ngoài, đóng sập cửa lại và chặn bằng một chiếc ghế. Chàng
quay về phía tôi, vẻ mặt hung hãn, tức giận và cau có. Chàng thổi tắt ngọn
đèn nhẩy phóc lên giường và quay lưng về phía tôi...
Một buổi chiều đông buồn tẻ, chúng tôi đến trước dòng Dương-Tử, đứa con
kiêu hùng của biển cả mà chúng tôi đã từ giả ở Hán-Khẩu. Nơi đây là
Trùng-Khánh, cách bờ bể ba ngàn cây số mà nó vẫn còn là vua các dòng
sông, sóng nước đỏ ngầu và đầy bùn ào ào xô đuổi nhau với một sức mạnh
trùng trùng. Bên bờ phía Bắc là dẫy đồi xếp thẳng một hàng, tối mờ đi vì
rừng thông. Dòng nước lao vào một ghềnh đá trơ trọi nằm song song với bờ
sông, vô tận và sủi những đợt sóng trắng xóa. Đứng từ bờ sông bên này,
cách biệt bởi một mặt nước mênh mông, rộng hàng cây số, chúng tôi ngắm
nghía cái kè đá khổng lồ có tên là Trùng-Khánh.
Xám mờ trong sương chiều, Trùng-Khánh trông giống như cái mũi tầu
nhọn hoắt của một chiếc tầu đang rẽ sóng giữa dòng sông Gia-Lâm và sông
Dương-Tử. Những tòa nhà đồ sộ, tầng này chất trên tầng kia, đứng sừng
sững trên ghềnh đá. Khói mù trên nóc thành phố, cho khuất mọi chi tiết,
nhưng những đường viền về một nét xám đậm rất rõ trên nền trời xám nhạt.
Nhìn từ phía bên kia dòng sông như vậy, thành phố có vẻ siêu thực, trôi vật
vờ trong màn sương, trong một ảo ảnh. Khoảng cách đã tạo nên ảo giác của
hư vô. Không thể nào tưởng ra được tiếng ầm ầm của muôn ngàn thứ cọ sát
lại có thể bốc lên trên những cái tháp xám nhạt đó. Đó chỉ là bóng dáng của
một thành phố tuyệt vô sinh động. Đó chỉ là một thành phố tạo ra trong trí
tưởng của chúng tôi, lặng lẽ, mù mờ trên mặt nước xám và mờ hơi sương.