hắn không mấy khi ở lâu quá hai tuần và lão Sáng lại phải kiểm người
khác. Đi đâu hắn cũng tha đứa con, địu sau lưng bằng một miếng vải mỏng
tanh. Dù vậy hắn chẳng thấy vướng víu gì và đi lại huỳnh hụych, đến đỗi
người ta phải sợ rằng cái đầu của đứa bé có thể văng ra và lăn lông lốc dưới
sàn. Ấy thế mà đứa bé có vẻ khoái như vậy: nó không bao giờ khóc mà ngủ
mê suốt ngày trong khi cái đầu gật gù lắc lư tứ phía.
Công việc độc nhất mà đám gia nhân cho phép tôi mó tới là việc cắm hoa.
Nhà tôi không có vườn bởi vì không có cây cỏ nào muốn mọc trong sân cả,
nhưng tất cả các thứ hoa xuân Tứ-Xuyên đều được bán ngoài đường: hoa
mận, hoa mai kép mầu hồng mầu trắng; hoa lan rừng với những cánh hoa
mỏng tanh với mùi thơm như quất; hoa hồng, hoa Thất-lý-hương"hương
thơm bảy dậm" - những cành lớn đầy hoa hàm tiếu trắng phau; hoa mộc-
qua của Nhật với những sắc xẫm, hoa khoa diên vĩ đại mầu xám nhạt, mang
từ quê ra hàng gánh lớn và bán với giá vài xu. Thật là thú vị khi sắp xếp
hoa, tươi và mát, khi cắm hoa vào những bình bông lớn mầu xanh, mầu
huyết dụ hay những bình bằng đồng, khi hàng ngày thay hoa cũ bằng
những hoa tươi hơn trong đại sảnh, trong các phòng ngủ.
Nhà chúng tôi thật là kỳ quái. Chú Ba vừa ở Trùng-Khánh vừa ở Thành-
Đô. Anh Hai đôi khi về nhà, đôi khi ở nhà ngân hàng, anh có phòng riêng ở
đó. Những ngày lễ hay ngày nghĩ mỗi tuần, nhà đầy thanh niên: các anh chị
em của tôi, các anh em họ và bạn của họ, những sinh viện đại học Trùng-
Khánh hay các vùng phụ cận. Các bạn của Chú Ba cũng thường đến luôn.
Tôi không thấy một người bạn nào của Pao. Không biết có phải vì họ
không biết tôi hiện có mặt nơi đây hay có lẽ, chắc họ cho việc đến thăm tôi
trong khi chồng tôi vắng nhà là bất tiện.
Mùa xuân đó, nếu có một không khí lo âu vu vơ ở Trùng-Khánh, chúng tôi
cũng chẳng nhận ra. Sâu trong mấy khuôn sân của nhà tôi, các ngày dài trôi
qua trong bình lặng. Một đường hẻm hẹp nối liền nhà tôi với đường phố