Ngoài phố không thấy ai khác ngoài các toán nhân công đang lo dọn dẹp
các đống gạch vỡ, không có tiệm nào mở cửa. Tôi trèo qua các đống gạch
vụn, tránh né các hố bom và các vũng nước còn đọng lại rải rác, với những
xác chuột chết nổi lều bều phía trên.
Trên một đường phố với những căn nhà có rào cản và tối om, tôi bất thần
gặp một ông già đang ngồi nơi vỉa hè trước những cái kệ cao, như thể mấy
cái kệ bầy đồ ăn của những tiệm ăn rẻ tiền. Ông lão vừa hút một cái tẩu
bằng tre nhỏ nhưng rất dài, vừa nhấm nháp nước trà và ăn bánh kô-quế,
một thứ bánh lạt nướng, tròn, không có nhân. Phía sau, người ta kê một hai
miếng ván và tôi thấy hai người đàn ông trẻ hơn cùng rất nhiều trẻ con và
nước trà với bánh. Họ ngồi xuống và bắt đầu ăn. Tôi ngần ngừ. Tôi mỉm
cười:
- Các ông có thể nhường cho tôi một chút nước trà và thứ gì ăn được
không? Tôi không kiếm đâu ra một tiệm nào mở cửa!
Ông già đứng vội dậy, tươi cười chào:
- Có chứ! Có chứ!
Họ bưng cho tôi một cái ghế đẩu bằng gỗ. Ông già tráng một cái ly, đổ đầy
nước trà và dùng hai tay trang trọng bưng đưa cho tôi. Một người đàn bà
bước ra mang thêm bánh. Bánh nóng và dòn tuy hơi cứng. Tôi ăn hai cái và
uống nước trà. Họ không hỏi han gì cả, cư xử như tôi là khách, họ mời tôi
uống thêm trà và mang thêm vài cái bánh. Không có vấn đề trả tiền. Họ
chia sẻ với tôi những gì họ có, tử tế, lịch sự, và khi tôi đứng dậy cám ơn và
xin cáo từ, chúng tôi chào nhau rối rít. Đó là những người cu-li(*). Hai
người đàn ông để vai trần, mặc cái quần vải nhạt mầu bó sát đùi và đi dép.
Nhưng cách đối xử của họ lại rất là vương giả.
(*) Chữ của tác giả.