nhỏ cách kỳ dị. Một đống sắt cong vòng, xoắn tít là phần còn lại của một
chiếc giường lò so số dách của chú tôi và một đống ve chai xanh nhạt là cái
bàn làm việc có kính phủ bên trên. Do một phép lạ, hai chiếc chậu Tô-Châu
lớn ở sân trước không bị bể nhưng chắc cá ở trong đều đã bị luộc chín hết.
Giữa đống ngói vụn trên căn phòng làm việc của chú tôi, một hàng sách
còn giữ nguyên hình dáng, nhưng khi lấy tay sờ vào, chúng tan thành tro và
bay tản mát theo cơn gió bấc. Được cái giá sách nặng nề che chở, chắc
những cuốn sách đã bị nun đốt sau khi cả căn nhà đổ đè lên trên. Trong sân
trong của đám gia nhân, nơi mà tôi và Lão Lí đã bới móc giữa đám gạch gỗ
vỡ nát, chỉ còn là một đống ngói nát vụn. Lửa đã thiêu rụi hết cả.
Chỉ một tuần lễ- bẩy ngày- đủ để uốn nắn đời tôi theo một lối mới. Tôi khó
mà tưởng ra được một nếp sống khác hay nó chỉ hiện ra như ký ức của một
quyển sách mà tôi đã đọc và xem các thói quen, các sự việc như thể tôi đã
không thực sự trải qua bao giờ. Bởi thế, một tuần lễ sau cuộc dội bom, khi
tôi trở lại Thành-Đô, nó không có vẻ như một lần trở về nhà cũ, mà như
mới tới một nơi xa lạ lần đầu. Tôi phải mất nhiều ngày để nối lại cái giòng
ký ức bị cắt đoạn, để đặt các biến cố vào đúng chỗ của nó. Trong khi ngồi
xe kéo qua các đường ở phố Thành-Đô, tôi mừng rỡ đến có thể phát khóc
khi còn thấy một thành phố nguyên lành cách tuyệt vời như vậy! Biết bao
mái nhà xinh xắn và thành phố có vẻ đỏm dáng biết bao với những bức
tường, những quán hàng, những cửa tiệm nằm san sát hai bên đại lộ rộng
thênh thang! Các đường phố đều sạch bách không có gạch vụn, thẳng tắp,
không lỗ chỗ hố bom. Một thành phố bị dội bom trông thật bừa bãi, rải rác
các đống gạch gỗ đổ nát. Một ngôi nhà sụp đổ một nửa trông giống như
một thân thể tàn phế; trông nó thảm thương và gần như là sỗ sàng với cái
vẻ tiều tụy của nó.
Thảm thương nhất là sự chết chóc và đau khổ. Nhưng đối với tôi- có lẽ bởi
vì tôi là một phụ nữ- cái hỗn loạn do chiến tranh tàn khốc gây ra cũng đủ
lên án nó cùng mực độ như sự tàn bạo.