ghế. Đám người chen lẫn nhau trong đó phải đứng hàng giờ. Nhiều người
mang theo những ghế đẩu hay ghế xếp. Khoảng nửa giờ sau, mùi hôi hám
trở thành nồng nặc. Việc vệ sinh được giải quyết với hai cái sô trống để ở
ngoài cửa cho đàn ông. Đám trẻ con thì tha hồ bậy bạ như súc vật.
Tôi đã sống qua ngày đầu tiên trong một hầm trú ẩn như vậy, từ mười giờ
sáng đến bốn giờ trưa. Sáu tiếng đồng hồ...
Chúng tôi nghe thấy tiếng máy bay và những tiếng nổ từ xa vọng lại. Giữa
hai đợt tấn công, chúng tôi liều ra ngoài để thở hay để thỏa mãn các nhu
cầu khác. Mặt trời nóng dữ dội. Chỉ có một cái cây con ở gần đó và dưới
cái bóng mát nhỏ xíu đó, một đám cu li nằm phưỡn bụng và phì phèo hút
thuốc, quá quen với cái cảnh cơm bữa này. Tôi nghe thấy một người trong
bọn nói:
- Trong khi chờ đợi mình cần sứa một chút chứ.
Tôi liều phơi nắng trên sườn đồi trống vậy. Nếu tôi cứ ở trong hầm, thế nào
tôi cũng bị lên cơn động kinh. Sau cùng, còi dứt báo động vang lên và mọi
người tuôn ra khỏi hầm. Mấy người phu khiêng kiệu đã được nghỉ khỏe-
mà đúng là nghỉ khỏe- sau hàng giờ bất động, kêu lên vui vẻ và lượm cáng
lên chạy; chở tôi đi bay bay. Mệt mỏi, tôi nằm ngả dài trên ghế ngưỡng
phục tinh thần của họ.
Căn nhà sẽ là tổ ấm của chúng tôi nằm trong một quận nửa quê nửa tỉnh,
các đường phố vỡ nát và uốn quanh các ngọn đồi, dẫn đến các cái miệng
đen ngòm của đường hầm. Hai người phu kiệu bỏ đường lát nhựa, xuống
nhiều bực thang rồi lại leo lên một khoảng cao như một cái tháp. Ngay trên
đỉnh tháp là nhà của tôi. Đó là một căn nhà hai tầng cũ kỹ mà người ta đã
sơn đen màu tro như bao nhà khác với ý tưởng làm như vậy cho khó thấy.
Những ngôi nhà này nằm ngay trên đỉnh đồi, không một cây che, chung
quanh toàn là ruộng lúa, không còn gì dễ nhắm hơn. Mấy phu kiệu đặt tôi
trước một cái cổng. Tôi đẩy cửa và đi vào một sân hẹp, rải rác ít ngói vỡ và