đông đồng loạt à lên một tiếng. Giống như tiếng ào của ngọn sóng dài đập
vào bờ vỡ tan, rồi lại ào ào rút ra bể khơi. Thành phố lại vùng dậy, uy nghi
trên mặt sông, giống như con tầu oai vệ, sáng trưng, đang lướt sóng trùng
dương.
Chúng tôi tự thích ứng với hoàn cảnh. Có thể chúng tôi cũng hơi chai sạn
lên tí ti. Sau những giờ ngồi bẹp dưới hầm tối, chúng tôi trồi lên, thèm thấy
ánh sáng và thú vui. Trong khi khu phố này bị dội bom, các toán cứu cấp
đang bơi móc và chuyên chở các xác người đi, tại các phố bên cạnh, đám
đông vẫn vui vẻ ăn diện và đang sốt ruột chờ các rạp hát mở cửa và thản
nhiên đứng ngắm một bức tranh quảng cáo vẽ hình một cặp tài tử Hoa-Lệ-
Ước đang ôm nhau hôn đắm đuối. Thế là trong cái mùa hạ thứ hai bị ăn
bom, tất cả từ đứa bé nhất đến người lớn nhất đều sống hai nếp sống. Một
cuộc sống diễn ra dưới cái hầm trú bom. Một cuộc sống khác, vội vàng, đứt
khúc diễn ra giữa các khoảng thời gian thất thường của các cuộc oanh tạc.
Trước và sau các cuộc rút xuống hầm xẩy ra gần như hàng ngày, tôi lo việc
nội trợ. Pao đi làm từ bẩy giờ sáng cho đến tối. Chàng ăn cả hai bữa trong
sở. Còn tôi, tôi chẳng lo gì về vấn đề ăn. Điều đó không có vẻ quan trọng
lắm vì lúc nào thời tiết cũng quá nóng... Buổi tối, tôi nấu một món ăn nhẹ
cho Pao. Cho đến khi đó, tôi chưa bao giờ nấu bếp cả. Cả hai đứa đều gầy
sút đi.
Chàng rất khổ tâm khi thấy tôi phải xách nước và phải lau sàn nhà, bởi thế
tôi phải làm các công việc nặng trong lúc chàng vắng nhà. Chúng tôi không
đủ tiền thuê một Á-Xẩm.
Trong sự cố gắng để thích nghi vào cuộc sống chật vật ở Trùng-Khánh, tôi
không thể không ngưỡng phục cách sống dễ dàng và giản dị của gia đình
hàng xóm của chúng tôi, gia đình họ Viên. Không bao giờ có điều cãi cọ to
tiếng. Trong gia đình này, không bao giờ người ta nói về vấn đề tiền bạc.
Sống cách vui vẻ, vô tư và sẵn sàng chia sớt những gì họ có. Có một hôm
tôi thấy Viên-Sinh-sâm bưng ngay nồi cơm lớn mà bà vợ vừa thổi để ăn tối,