mạnh hệt như anh là một con thú bị mắc bẫy ở đó. Cả người anh ướt
đẫm mồ hôi.”
“Anh biết tiếng Ả Rập.” Bằng cách xác nhận sự việc một cách đơn
giản, tôi cho anh cơ hội để nghe thử những điều mình vừa nói buồn
cười đến mức nào và rút lại nó.
“Anh cũng có thể nói một ít. Em có muốn nghe không?”
“Không,” tôi từ chối, ép ngón tay lên phần chóp xương gò má,
cảm nhận làn da phía dưới tay mình căng cứng.
‘“Xin chào’ là as-salãmu ‘alaykum”, Lucas chỉ tôi. “Shukran là
‘cám ơn’. Anh nghĩ câu anh biết rành nhất là Lã atakalam ‘arabi. Câu
đó có nghĩa là ‘Tôi không nói tiếng Ả Rập?’
Tôi không nói gì cả. Tôi muốn bịt tai lại, nhưng không thể. Nếu tôi
thừa nhận những ý tưởng kì quặc xuất phát từ miệng Lucas khiến mình
sợ, nghĩa là tôi phải thừa nhận chúng là thật. Nhưng chúng không phải.
“Một lần khác,” anh tiếp, “trong tiết Toán, anh bắt gặp mình đang
lo lắng bộ giáp mình mặc có thể đã bị sai sót, và anh đã phản ứng kiểu
Cái gì? Suy nghĩ này đến từ đâu đây? Nhưng sau đó anh nhận ra mình
biết bộ giáp bị sai ở đâu. Có tin đồn rằng một số nhà thầu chính phủ
không muốn bỏ tiền vào cuộc chiến đó. Nó khiến bọn anh nổi điên.”
“Nhưng điều này đâu có trong giấc mơ?” Tôi nghĩ rằng nếu mình
có thể tìm được lỗ hổng trong câu chuyện của anh, tôi có thể làm cho
anh ngừng việc tin vào nó trước khi anh thuyết phục được tôi.
“Đó là những gì anh muốn nói với em. Anh không phải lúc nào
cũng mơ.”
“Vậy ra anh thêm thắt vào giấc mơ sao?” tôi chất vấn. “Nó sẽ thay
đổi chắc?”
“Juliet”, anh nạt tôi. “Anh không nghĩ nó là mơ.”
Lucas cho tôi vài giây để tiếp nhận những điều anh muốn nói,
nhưng khi thời gian trôi qua, tôi phát hiện mình cần nhiều hơn thế. Một
phút? Một năm? Hay phải phẫu thuật thùy não?
“Vậy ra vì nó mà anh sợ em sẽ ra khỏi xe và đi bộ về nhà?”