người. Anh có thể đảm bảo với em rằng tất thảy mọi người đang sống ở
hẻm đó đều đang nấp bên trong, một số khác tự trang bị bom tự chế
trong nhà bếp bằng hộp trà và đinh đóng mái nhà.” Anh lấy hai tay ôm
đầu và run lên lần nữa.
“Lucas,” tôi gọi anh. “Em đang nhìn anh đây. Giờ đang là năm
1994. Anh đang mười bảy tuổi. Ngay bây giờ anh không cần sợ hãi
đâu.”
Nhưng dường như anh không nghe thấy tôi. “Có cầu thang, Jules.”
Anh gần như nghẹn lời. Mồ hôi anh túa ra thành dòng trên trán, dù trời
đang là mùa đông và chúng tôi đang ngồi bên ngoài. “Khúc cua. Những
khúc cua vô tận.”
Tôi hình dung ra cầu thang thoát hiểm Phòng cháy chữa cháy tại
khu phòng khám phức hợp nha khoa. Mỗi lần đi lên đó, tôi đều có cảm
giác mình đang trong một cảnh rượt đuổi trên phim. Tiếng bước chân
tôi vang vọng trên sàn bê tông, ngón tay tôi cào vào lan can sắt đã bị gỉ
sét.
“Em có biết cái cảm giác dẫn dắt một nhóm người lên tám cầu
thang là gì không?” Lucas tiếp. “Em đang nhìn thấy mười sáu cơ hội có
ai đó nhảy xổ vào người mình. Mười sáu cơ hội để không bị nhắm
thẳng. Bọn anh giống một lũ chuột đang chạy vòng vòng trong mê
cung. Lũ chuột bị bịt mắt và đang chờ chết.”
Tôi giữ chặt tay Lucas rồi vuốt ve khuôn mặt anh. “Bây giờ anh
đang ở đây,” tôi nói.
“Em tin anh, đúng không?” anh hỏi.
“Em tin anh mà.” Tôi khẳng định. Và ý tôi không chỉ có vậy. Tôi
tin những gì anh nói là thật.
Hết lần này đến lần khác, tôi nhắc Lucas rằng viễn cảnh anh thấy
không hẳn là tương lai anh sẽ trải qua. Thỉnh thoảng anh thấy dễ chịu vì
điều đó. Thỉnh thoảng anh sẽ để tôi bàn về cơn ác mộng. Những lần
khác, anh lại cho đó là dấu hiệu của việc tôi không tin những gì anh
nói.