nhất mọi người sẽ có ảo giác là chúng tôi đang thân mật với nhau.
“Anh có nhớ giấc mơ mình vẫn thường gặp không?”, tôi hỏi. “Về cuộc
chiến đó?”
“Giấc mơ nào?”, anh hỏi lại tôi.
“Không có gì lạ khi bị mất ký ức trong trường hợp như thế này
đâu.” Bác sĩ Katz can thiệp vào, giải thích. “Trong những tình huống bị
chấn thương.”
Tôi nhìn Lucas. Anh bắt gặp ánh mắt tôi và nhanh chóng quay đi.
Nhưng cũng đủ để tôi nhận thấy điều đã mất đi: ánh mắt anh. Trước
đây, nó luôn sáng lấp lánh và lóe sáng, cho thấy rằng anh luôn biết
nhiều hơn mọi người nghĩ. Giờ đây ánh mắt đó phẳng lặng, đăm đăm,
cố định về phía trước như một kẻ bất trị. Đôi mắt non nớt và thiếu hiểu
biết.
“Đừng nhìn anh như vậy, Jules.” Anh bật cười lo lắng lần nữa.
“Cháu có thể bị mất trí nhớ,” bác sĩ Katz tiếp. “Không ai có hiểu
biết chính xác, hoặc thậm chí là sơ sài về cách vận hành của trí nhớ. Tất
cả chúng ta đều biết ký ức có thể vẫn còn ở đó, lưu giữ trong nhiều
vùng khác nhau của não. Cái cháu mất là khả năng để lắp ráp lại nó.”
“Anh không nhớ giấc mơ đó nữa à?” tôi hỏi nhỏ Lucas lần nữa.
Anh nhún vai. “Anh nghĩ là anh khá nhớ mình đã có một giấc
mơ,” anh nói. “Nó dữ dội không?”
“Nói vậy là còn giảm nhẹ đi rồi.”
“Con bé nói với chúng ta rằng con đã tin giấc mơ đó là thật”, bà
Dunready nói. Bà dùng từ “con bé”, như thể tôi đang không có mặt
trong phòng. “Nó nói con đã có những ảo giác về việc dự đoán tương
lai.”
Lucas nhìn tôi lần nữa. “Anh á?”
“Anh không hẳn là nhìn thấy trước tương lai,” tôi giải thích. “Anh
giống như là nhớ ra nó hơn.”
“Anh có nghĩ là”, anh bắt đầu. Gương mặt phút trước còn trắng
bệch giờ đã chuyển sang đỏ rực vì ngượng ngùng. “Anh nghĩ là anh đã