anh đã cắt bài báo và gửi kèm cho em theo lá thư này. Tất cả mọi người đều
hỏi anh tin tức về em, điều đó càng làm cho sự thiếu vắng em trở nên khó
khăn hơn đối với anh. Anh nhớ em biết bao! Năm học đã bắt đầu trở lại,
anh đang tìm một chỗ ở gần trường, anh đã nộp hồ sơ đăng kí thuê một căn
phòng kiểu nghệ sĩ để ở và làm việc nhưng sẽ phải sơn sửa lại, trong một
chung cư nhỏ ba tầng ở phố Broome. Nơi này sẽ cần được sửa sang lại.
Nguyên cả khu phố cũng ở trong tình trạng khá cũ kĩ, nhưng căn phòng
rộng và giá thuê nhà ở đây quả thật rất phải chăng, hơn nữa, em thử tưởng
tượng xem, sống ngay giữa Manhattan! Khi em quay lại đây, chúng ta sẽ
sống chỉ cách rạp Fiml Forum mấy dãy phố, em còn nhớ nó không? Thật
khó mà tin nổi, trên cửa kính của quán bar đối diện có treo một lá cờ
Honduras; trong khi chờ đợi em ở đây, mỗi ngày anh đều đi ngang qua phía
trước quán, đó là một dấu hiệu. Em nhớ giữ gìn sức khỏe. Anh nhớ em.
Philip
Những lá thư của Susan đều đặn đến tay anh mỗi tuần một lá, anh viết
thư trả lời ngay tối những hôm nhận được thư. Có khi lá thư gửi đi và lá thư
đến tình cờ gặp nhau, và anh nhận được những câu trả lời trước cả khi kịp
gửi những câu hỏi. Dưới vĩ tuyền thứ hai mươi, những cộng đống dân cư tự
trang bị cho mình một thứ vũ khí duy nhất là lòng dũng cảm, và cả đất nước
nỗ lực tái thiết trong những điều kiện thiếu thốn do thiên tai. Susan và các
đồng nghiệp của cô đã dựng được trại trú ẩn đầu tiên. Họ đã chọn nơi xây
dựng của mình tại thung lũng Sula, giữa các dãy núi San Idelfonso và
Cabaceras de Naco. Tháng Giêng khởi đầu cho một chiến dịch tiêm chủng
rộng rãi. Với một chiếc xe tải cũ kĩ, Susan rong ruổi trên mọi con đường,
tranh thủ phân phát lương thực, hạt giống và thuốc men. Khi không ngồi
sau tay lái chiếc Dodge, cô dành thời gian để tổ chức trại. Ngôi nhà đầu tiên
được dựng lên được dùng làm nơi khám chữa bệnh, căn phòng tiếp theo
làm văn phòng hành chính. Mười ngôi nhà làm từ đất trộn và gạch đã trở
thành nơi trú chân cho ba mươi gia đình. Cuối tháng Hai, khu xóm nhỏ của
Susan được hình thành, trải rộng trên ba con phố, với hai dãy gồm hai mươi
mốt căn nhà tranh vách đất. Trong số hai trăm con người trú ngụ nơi đây,
hai phần ba đã có lại được một mái nhà để ở. Những người khác ngủ trong