“Còn con cái?” tôi hỏi ngập ngừng.
“Chỉ có mình con thôi,” con bé đáp, nhìn đăm đăm ra cửa sổ bên hông
khi chúng chạy xe ra khỏi thành phố theo hướng Bắc, về lại khu ngô.
“À, thấy chú ấy vẫn còn chơi nhạc cô rất mừng,” tôi nói, tìm một câu
mào đầu - câu nào đó để gợi nó kể về buổi tối nay, về Conrad và những
cảm nhận của nó.
“Dạ. Nhưng chú ấy cũng kinh doanh nữa,” con bé nói. “Zelda là quán
bar của chú ấy. Do chú ấy sáng lập.”
“Vậy sao?” tôi nói, vừa ngạc nhiên vừa hài lòng. “Tuyệt quá.”
“Phải. Mới đầu thì đó là câu lạc bộ jazz, khoảng mười lăm năm trước -
rồi chú mời mấy nhạc công giỏi trong thành phố, bạn bè và những người
quen biết khác tới. Rồi mọi người cứ truyền tụng và giờ thì quán đã thành
một huyền thoại ở Chicago - nhạc công cả nước đến và chơi đủ loại nhạc.”
Con bé nói về chuyện đó với cái giọng sôi nổi nhất tôi từng nghe ở nó.
“Ừ, cô cũng không ngạc nhiên,” tôi nói, dù một phần nhỏ trong tôi rất
ngạc nhiên, và tôi nghĩ con bé nhìn thấu điều đó, đúng cái kiểu của nó -
luôn gạt phăng mọi thứ nhảm nhí.
“Chú ấy chưa từng vào đại học,” con bé nói. “Vậy mà nhìn chú ấy xem.
Chú ấy thật sự hạnh phúc trong quán bar đó. Chú ấy gọi nó là nhà mình.
Gia đình mình. Thậm chí vợ cũ của chú ấy vẫn còn làm việc ở đó - và họ
vẫn là bạn bè.”
Tôi sắp xếp lại chi tiết này, thắc mắc không biết mối quan hệ của họ thế
nào và vì sao họ chia tay, rồi nói, “Hai bố con với nhau tuyệt vời thật đấy.”
“Cảm ơn cô,” nó nói. “Quả là vui.”
Chúng tôi im bặt khi gần tới Glencoe, rồi chạy vào Maple Hill. Gần như
nhà nào cũng đều đã tắt đèn, lác đác chỉ còn vài ngọn đèn bên hàng hiên.
Khi chúng tôi chạy vào lối đi, con bé quay qua tôi, “Cô làm tan nát trái tim
chú ấy, cô biết không.”