khí có phần tẻ nhạt dần, và tôi đứng bên cửa sổ, vừa phóng ánh mắt ra
ngoài vườn, vừa soạn trong đầu mấy vần thơ. Tôi say sưa với việc này đến
nỗi chẳng mấy chốc đã quên bẵng tất cả mọi thứ khác, cho tới khi đột nhiên
tôi nghe thấy bác Elizabeth gọi 'Emily' bằng giọng sắc lẻm, và rồi bác ấy
hướng ánh mắt đầy ẩn ý về phía ngài Johnson, mục sư mới của chúng tôi.
Tôi bối rối chộp lấy bình trà và kêu lên,
“ 'Ôi, ngài Tách, ngài có muốn châm thêm trà vào Johnson của ngài
không ạ?'
“Ai nấy đều phá lên cười, bác Elizabeth trông vô cùng cáu kỉnh và bác
Laura xấu hổ tột độ, còn tôi thì chỉ ước gì mình chui xuống đất cho xong.
Tôi trằn trọc gần hết một đêm vì cứ nghĩ mãi về chuyện này. Lạ một nỗi tôi
tin chắc nếu thực sự làm sai chuyện gì đó thì tôi cũng chẳng cảm thấy bứt
rứt và xấu hổ đến mức này. Tất nhiên đây là vấn đề về 'lòng kiêu hãnh của
người nhà Murray', và tôi cho rằng chuyện này rất tệ hại. Đôi khi, tôi chỉ sợ
rằng xét cho cùng, bà bác Ruth Dutton hóa ra đã đánh giá đúng về tôi.
“Không, bà ấy không đúng!
“Nhưng ở Trăng Non đã hình thành một truyền thống rằng những
người phụ nữ trong dòng họ cần phải có đủ khả năng đối phó với bất kỳ
tình huống nào và lúc nào cũng phải tỏ ra duyên dáng đường hoàng. Ôi
chao, còn gì là duyên dáng đường hoàng khi hỏi ngài mục sư mới một câu
như vậy chứ. Tôi dám chắc từ giờ trở đi, hễ gặp tôi là thể nào ông ấy cũng
nghĩ đến chuyện đó cho xem, và tôi sẽ luôn khổ sở dằn vặt mỗi khi thấy
ông ấy hướng ánh mắt về phía mình.
“Nhưng bây giờ, khi đã viết lại câu chuyện này vào nhật ký rồi thì tôi
không còn cảm thấy quá khổ sở nữa. Dường như một khi đã được viết ra
rồi thì chẳng điều gì còn có vẻ to tát hay khủng khiếp – than ôi, cũng chẳng
đẹp đẽ hay huy hoàng – như khi ta đang nghĩ hay cảm giác về nó. Dường
như nó đã co lại ngay khi ta đem nó vào trong ngôn ngữ. Ngay cả câu thơ