chừng đã hai mươi năm tuổi. Thật chẳng ai có thể tin nổi trên đời này có có
bất cứ thứ gì xấu xí và sầu não như chúng.
“Căn phòng này chẳng thân thiện chút nào… nó không muốn mình…
mình sẽ chẳng đời nào tìm được cảm giác thận thuộc thoải mái ở đây,”
Emily nói.
Cô thấy nhớ nhà da diết. Cô muốn những những ánh nến ở Trăng Non
tỏa sáng chiếu rọi những cây bu lô… mùi hương của những dãy hoa bia
tắm ướt sương… lũ mèo gừ rừ của cô… căn phòng yêu dấu đong đầy ước
mơ của cô… sự thính lặng và những bóng đen trong khu vườn cũ… những
bài ca oai hùng của sóng gió cất lên giữa vịnh… thứ âm nhạc lâu đời vang
vọng mà cô nhớ đến quay quắt giữa sự im lặng của vùng nội địa này. Thậm
chí, cô nhớ cả khu nghĩa địa nhỏ vốn là nơi yên nghỉ của những thế hệ
Trăng Non quá cố.
“Mình sẽ không khóc.” Emily siết chặt hai tay. “Bác Ruth sẽ cười
nhạo mình cho xem. Mình chẳng thể yêu nổi bất kỳ thứ nào trong này. Liệu
bên ngoài có thứ gì không?”
Cô đẩy cửa sổ lên. Ô cửa trổ ra hướng Nam, mở thẳng ra vạt linh sam,
và mùi nhựa thơm bay đến chỗ cô như vuốt ve âu yếm. Phía bên trái, có
một khoảng trống giữa rừng cây, làm thành một cái cửa sổ xanh mái vòm,
và xuyên sang phía bên kia, người ta sẽ nhìn thấy một khoảnh đất nhỏ chan
chứa ánh trăng quyến rũ đến mê người. Và nó cũng dẫn vào khung cảnh
hoàng hôn tráng lệ. Phía bên phải trông ra sườn đồi rải rác những mái nhà
của cư dân phía Tây Shrewsbury; ngọn đồi lốm đốm ánh đèn giữa ánh
chạng vạng ngày thu, đắm chìm trong một vẻ đẹp như miền cổ tích. Đâu đó
gần đây, vẳng lại tiếng chim uể oải chắc hẳn của vài chú chim non đang mơ
màng buồn ngủ nhún nhảy trên một cành cây sấp bóng.
“Chao ôi, cảnh tượng này đẹp quá,” Emily thì thào, thò hẳn người ra
ngoài để hít căng lồng ngực bầu không khí đượm hương linh sam. “Cha