tôi khuyên cô nên chợp mắt đi… chắc chắn họ sẽ sớm tìm thấy thằng bé
thôi.”
“Họ sẽ chẳng bao giờ tìm tháya thằng bé đâu.” Giọng nói giờ gần như
đã biến thành tiếng kêu gào. “Nó đã chết rồi… nó chết rồi… nó đã chết từ
tận cái đêm thứ Ba lạnh buốt da buốt thịt ấy rồi. Ôi Chúa ơi, xin Người rủ
lòng thương! Thằng bé còn bé bỏng xiết bao! Mà tôi thì cứ luôn miệng
nhắc nhở nó đừng có mở miệng ra nói trừ phi có người nói chuyện với nó
trước… nó sẽ chẳng bao giờ nói chuyện với tôi nữa. Trước giờ hễ nó lên
giường đi ngủ là tôi đều không cho phép nó để nến sáng… và nó đã chết
trong cảnh tối tăm, giữa cô đơn lạnh lẽo. Trước giờ tôi không cho phép nó
nuôi chó… mà nó thì lại khát khao có một con chó đến vậy. Nhưng giờ nó
chẳng khát khao gì cả… chỉ một nấm mồ và tấm vải liệm mà thôi.”
“Tớ không chịu nổi cảnh này,” Emily lầm bầm. “Tớ không thể, Ilse ạ.
Tớ có cảm giác mình sắp kinh hãi đến phát điên lên rồi. Tớ thà ở ngoài giữa
trời bão còn hơn.”
Bà Hollinger, dáng người dong dỏng, khuôn mặt toát lên vẻ cảm thông
và nghiêm nghị, bước ra khỏi phòng ngủ và đóng cửa lại.
“Thật kinh khủng, phải không! Cô ấy sẽ cứ thế này cả tối cho xem.
Các cháu đã muốn đi ngủ chưa? Trời vẫn còn sớm, nhưng hẳn hai cháu mệt
rồi và có khi tốt hơn là nên ở chỗ nào mà các cháu không nghe được tiếng
cô ấy, thật tội nghiệp. Cô ấy không chịu dùng trà… cô ấy sợ bác sĩ bỏ thuốc
ngủ vào trong đó. Cô ấy không muốn ngủ chừng nào còn chưa tìm thấy
thằng bé, dẫu sống hay chết cũng mặc lòng. Nếu thằng bé mà bị kẹt ở vùng
cát lún rồi thì nhiên người ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy nó.”
“Julia Hollinger, nhà chị đúng là đồ ngốc và là con gái của một kẻ
ngốc, nhưng chắc chắn ngay cả chị cũng phải hiểu rõ một đứa trẻ không thể
mất tích giữa thế kỷ 19 được,” cụ Bradshaw nói.