chẳng bao giờ cho phép mình một mình đi bất cứ đâu. Ilse sẽ đi xa... cả
Perry nữa... và có lẽ Teddy cũng thế. Cậu ấy nói cậu ấy buộc phải đi làm gì
đó để kiếm tiền trang trải chi phí học mỹ thuật. Mình phải đi.”
Cô nói kiên quyết, như thể đang tranh cãi với một đối thủ vô hình nào
đó. Sẩm tối khi cô về đến nhà, không có ai ở đó, và cô cứ đi đi lại lại không
gnừng khắp quanh nhà. Những căn phòng lâu đời mới quyến rũ, đường
hoàng và đẹp đẽ làm sao chứ, với nào nến, nào ghế tựa lưng hình thang,
nào thảm bện! Căn phòng nhỏ bé của cô mới thân thương mời gọi xiết bao,
với giấy dán hình thoi, với thiên thần bảo hộ, với cái lọ bầu bĩnh màu đen
in hình hoa hồng cùng tấm kính cửa sổ kỳ cục lập dị! Căn hộ của cô Royal
liệu có tuyệt vời bằng một nửa thế này không?”
“Tất nhiên mình sẽ đi,” cô nhắc lại lần nữa; cảm giác như thể chỉ cần
bỏ qua từ “tất nhiên” ấy thì hẳn mọi chuyện đã được định đoạt rồi.
Cô bước vào vườn, đắm chìm trong vẻ đẹp lạnh nhạt, thờ ơ của đêm
trăng đầu xuân, và đi đi lại lại trên những lối đi trong vườn. Từ xa xăm,
vẳng đến tiếng còi tàu Shrewsbury – y hệt tiếng gọi từ thế giới đầy mê hoặc
đằng sau nó; một thế giới tràn ngập thú vị, quyến rũ và kịch tính. Cô dừng
lại bên chiếc đồng hồ mặt trời cũ kỹ phủ lớp địa y và lần dấu theo câu nói
chạy dọc theo vành đồng hồ, “Cứ thế thời gian trôi”. Thời gian cứ thế trôi -
gấp gáp, không chút lưu tình, ngay cả ở Trăng Non, vốn không thể bị hư
hại bởi bất kỳ sự vội vã hay hối thúc nào của thời hiện đại. Lẽ nào cô không
nên thuận theo dòng chảy? Những bông hoa loa kèn tháng Sáu trắng muốt
rung rinh trong gió nhẹ; cô hầu như có thể nhìn thấy Bà Gió – người bạn
lâu năm – đang cúi rạp trên khóm hoa để xoay nghiêng những cái cằm mịn
màng của chúng. Liệu Bà Gió có đến gặp cô giữa phố phường đông đúc nơi
thành phố? Liệu ở đó cô có được giống như con mèo của Kipling?
“Và chẳng biết liệu ở New York, có bao giờ mình gặp ánh chớp
không,” cô bâng khuâng nghĩ.