lôi ông vào trong.
“Bác Jimmy, chuyện này nghĩa là sao? Chắc hẳn bác phải biết gì
đó, làm sao nhà xuất bản Wareham lại có cuốn sách của cháu?”
“Vậy là họ chấp nhận thật rồi hả?” ông Jimmy hỏi.
“Vâng. Và cháu chưa bao giờ gửi nó cho họ. Cháu không nghĩ là
sẽ có ích lợi xíu xiu gì... Wareham cơ đấy. Có phải cháu đang mơ
không?”
“Không đâu. Để bác nói cho cháu... nhưng đừng có giận nhé,
Emily. Cháu còn nhớ một tháng trước bác Elizabeth đã yêu cầu bác
dọn dẹp lại gác xép chứ. Bác đang chuyển cái hộp các tông cũ đựng
rất nhiều đồ của cháu sang chỗ khác thì nó đổ ngược ra. Mọi thứ rơi
ra... Vậy đấy... tung tóe khắp gác xép. Bác nhặt nhạnh lại, và bản thảo
cuốn sách của cháu lẫn trong đó. Bác tình cờ ngó qua một trang, rồi
bác ngồi xuống, rồi một tiếng sau bác Elizabeth lên và phát hiện ra bác
vẫn đang ngồi bệt xuống đất đọc. Bác đã quên hết mọi thứ. Chúa ơi,
bác ấy giận điên lên! Gác xép mới dọn được một nửa trong khi bữa tối
đã sẵn sàng. Nhưng bác chẳng quan tâm bác ấy đang nói gì, bác chỉ
nghĩ, ‘Nếu cuốn sách đã khiến mình quên hết mọi thứ như thế này thì
nó phải có điều gì đó đặc biệt. Mình sẽ gửi nó đến đâu đó.’ Mà bác
chẳng biết gửi nó đến bất kỳ nơi nào khác ngoài Wareham. Bác vẫn
luôn nghe kể về họ. Và bác không biết gửi nó đi bằng cách nào, vậy là
bác cứ thế nhét nó vào trong một cái hộp bánh quy cũ và lập tức ra
bưu điện gửi cho họ.”
“Thậm chí bác còn không gửi kèm tem để họ hồi đáp sao?”
Emily hoảng sợ hỏi.
“Không, có nghĩ gì đến đâu. Có lẽ chính vì vậy họ đã nhận nó.
Có lẽ những nhà xuất bản khác gửi trả lại vì cháu đã gửi kèm tem
đấy.”
“Khó có chuyện đó lắm.” Emily bật cười, rồi nhận ra cô đang
khóc.
“Emily, cháu sẽ không giận bác chứ, phải không?”