Và cô bé đẩy cửa bước ra khỏi văn phòng. Tôi tiễn Eun-kyo ra tận
cửa. Tiết trời vừa đầu tháng Ba, đồi NamSan vẫn đầy tàn tích của
tuyết, thời tiết giờ vẫn mang một hơi lạnh buốt.
“Cuộc đàm phán chiều nay dời sang ngày mai, chiều nay cô có
thể nghỉ việc.” Tôi nói với cô Yun như vậy. Gọi là nhân viên chẳng qua
chỉ có mình cô Yun mà thôi, hành nghề luật sư như tôi cũng giống
như đang về hưu ngầm vậy, ngoài mấy người quen biết nhờ giúp
đỡ ra, trên nguyên tắc ba năm nay tôi đã không nhận thêm bất cứ
một vụ nào nữa. Cô Yun buông tách cà phê xuống rồi đi ra ngoài.
Căn phòng thật ấm áp.
Tôi mở tập hồi ký, đi đến chiếc sofa ngồi xuống.
Đây là cuốn hồi ký mà nhà thơ dùng bút mực viết rõ ràng từng
nét từng nét một. Tôi bỗng có cảm giác bất an, cảm thấy những lời
thú nhận về việc yêu sâu sắc cô bé Eun-kyo và việc giết hại Seo Ji-
woo cùng lời cuối cùng ở phần lời tựa “Là một dạng bản năng” ấy
có sự liên quan mật thiết với nhau. Đầu tiên, khi nghe đến lời tự
bạch khủng khiếp giết Seo Ji-woo, tôi đã cảm thấy bất an, và sau
đó, khi cơn choáng váng qua đi, giờ đây tôi lại bất an với câu cuối
cùng đó.
Cửa sổ nơi phòng sách của nhà thơ rất rộng, có lẽ đêm trước lúc
lâm chung, ông ấy đã vô cùng muốn được nhìn thấy thế giới ở
bên ngoài kia đấy nhỉ? Cửa sổ chắc đối diện chỗ ông hay ngồi,
lớp giấy dán Hanji bên ngoài cửa đó chắc đã bóc đi rồi, không khó
để tưởng tượng những ngọn cây tùng bị phủ đầy những bông tuyết
cứng ngắc đang lay động ngoài đó. Tôi ngồi duỗi người trên sofa,
lặng lẽ dùng ánh mắt của nhà thơ để nhìn ra ngoài cửa sổ, bóng tùng
ngoài đó đang lắc lư, đó hẳn là bóng đen không tối cũng không
sáng trong một đêm xanh thăm thẳm.