trưng cho một mùa ao ước (...) và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái
lạc chê chán.” (Chơi giữa mùa trăng). Trong trăng có hương thơm, có nhạc,
có hơi thở và có tình. “Tình thoát ra ở điệu nhạc mênh mang trong bờ bến
của chiêm bao.” Trong chiêm bao, trong vùng mộng phi thời gian, đến gió
cũng “phảng phất những tiếng kêu rên của thương nhớ xa xưa.” Thế giới
ánh sáng thu hẹp ở hình tượng “trăng”. Thế giới trăng, thế giới của những
ao ước, nhớ thương hợp thành một thể thống nhất: thế giới nghệ thuật, thế
giới của những ký hiệu, biểu tượng.
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi...
Trăng nằm, thơ mộng, chông chênh và hư huyền quá. Mà lại nằm sóng
soải thì thật táo bạo, gợi tình. Cảm xúc thơ bừng lên, rạo rực men say ái
tình. Cái khao khát “cuồng điên” của trăng biểu hiện trong tư thế, cả trong
cái ý nghĩ trần thế: để lả lơi. Thơ Hàn Mạc Tử bộc lộ nhiều ẩn ức và ham
muốn.
Con người trong thơ Hàn Mạc Tử được bao bọc “bằng ánh sáng, bằng
huyền diệu”, “say sưa và ngây ngất vì ánh sáng”, bầu trời càng sáng con
người càng “hứng trí”. Thậm chí đi trong ánh sáng “đê mê, không biết là có
mình và nhận mình là ai nữa.” Ánh sáng tạo ra ở chủ thể sáng tạo cảm giác
siêu thoát hay hư vô. Ánh sáng với vẻ trắng trong, đồng trinh, thanh thoát
của nó - trong cảm quan của Hàn Mạc Tử - là hiện thân của Đấng tối linh,
của Đức Mẹ. Ánh sáng được ví với thứ ma lực vô song, “xô thi sĩ đến bờ
huyền diệu”. “Mùa trăng bát ngát... lòng tôi rực lên cảm hứng”, “từ sự thực
đi tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu, và từ huyền diệu đi tới chiêm
bao. Mông lung đã trùm lên sự vật và cõi thực, bị ánh sáng của chiêm bao
vây riết...” (Chiêm bao với sự thực). Ánh sáng vừa vĩnh viễn vừa không
vĩnh viễn. Có ánh sáng thực, ánh sáng mộng. Có thứ ánh sáng “tan thành
bọt”, có loại ánh sáng muôn năm mà thi sĩ khao khát chiếm giữ được. Ánh
sáng “giải thoát cái 'ta' của tôi ra khỏi nơi giam cầm của xác thịt...”