Sáng thứ hai tuần ấy, Thiêm nện đến vỡ kẻng, nghĩ thương linh hồn
người lái xe Ford trú ngụ trong đó cũng phải đau ê ẩm, nhưng cái sân tập
họp học trò làm lễ chào cờ đầu tuần chỉ lèo tèo hơn chục em. Thiêm hỏi lý
do, từng em đều nói chung một giọng: “Cha mẹ bảo không nên đi học vì
hôm qua có người đi nương ở thôn Ngải Chồ nhặt được một chiếc dù đỏ
thả từ trên trời xuống.”
Cho các em vào lớp, vừa viết xong đề toán lên bảng cho các em lớp
bốn, định giảng bài lịch sử cho các em lớp năm, Thiêm bỗng nghe thấy ba
tiếng súng nổ váng trời ở nhà hố pẩu. Anh dặn các em trật tự làm bài rồi
chạy đi.
Người đang dồn đống trước cửa nhà hố pẩu. Thiêm túm tay người đàn
ông vừa leo lên mái nhà nổ súng báo hiệu có người chết tụt xuống, hỏi: “Ai
thế?” và sợ hãi vì một linh giác bất chợt, len qua đám đông, lao thẳng vào
nhà.
“Đù a!” anh hộc tiếng kêu trời, ôm mặt, sụm ngay xuống đất. Nằm
trên nền nhà, váy áo dính đầy tro bụi, tóc tuột cả mớ ra ngoài vành khăn,
Seo Mùa mặt đã vàng xạm đang thoi thóp thở. Cô vừa chiêu thêm hớp rượu
sau khi đã ăn cả một nắm lá ngón. Một người đàn bà nhấc cái liềm cùn
nung đỏ dí vào cổ cô theo lối chữa mẹo cổ truyền định cản đường đi của
chất độc xuống tim gan. Vô ích. Cô đang ở phút cuối cùng của cuộc đời
ngắn ngủi mà nhiều khổ ải của mình. Thiêm cúi xuống, hai cánh mũi căng
nhức. “Em ơi!” Anh thốt kêu và bế xốc cô lên. Đã chết rồi, cô bỗng mở
mắt, ngoẹo đầu, dồn hết sức tàn há miệng, bập răng vào bắp tay anh rồi
giãy nhẹ một cái. Trời! Anh nấc một tiếng than, thần sắc nhợt nhạt, ngật
ngưỡng gào: “Tếnh! Tếnh đâu rồi!” Và thập thễnh đi ra cửa. Anh đã mất
Seo Mùa.
Vừa lúc sau nhà hố pẩu có tiếng nổ đánh ùng. Khói bốc lên một cuộn
cùng tiếng reo hoan hỉ vô lối: “Người mình xuống từ đêm qua rồi!” Hố pẩu
loạng choạng bước ra sân, nhìn trái, nhìn phải, hỏi: “Cái gì đấy?” Không có
lời đáp trả. Mọi người đã tản đi. Căn nhà chỉ còn xác Seo Mùa lạnh ngắt.
Rộn rịch tiếng vó ngựa dồn, thành một vòng tròn mỗi lúc một rộng.