thiên cổ. Giờ cháu mới thật thấm thía nỗi cô đơn vì vắng ông. Ông cười:
“Không buồn! Coi như ông đi về ngôi nhà lớn cuả ông ở cõi âm thôi. Cõi
âm đông kém gì dương gian. Ông gặp người lái chiếc xe Ford. Ông ta nói
rất kính phục cháu. Cháu không cô đơn đâu. Cháu như thánh Giêsu vác
thánh giá khổ nạn cho mọi người.” Nói rồi, ông đưa tay xoa mặt Thiêm ba
lần, tiếp: “Mặt cháu, mắt cháu, rồi sẽ lành, rồi sẽ sáng như mặt trời, mặt
trăng định vị!”
Ngày tứ cửu, Thiêm trở dậy, quái lạ, đưa tay lên sờ mặt bỗng thấy như
mặt ai. Những đám sần sùi phồng rộp đã xèm xẹp, nhăn nhẵn. Hôm sau
nữa, những vệt da lởm nhởm, ram ráp đã như bị bóc tuột đi. Và mắt đã bắt
gặp một ánh trắng bong của cánh hoa nhài nở bên bể nước mưa cạnh bức
tường hoa.
Mọi người cùng reo mừng, cười to, nói lớn:
- Thuốc gia truyền của dòng họ ông để lại là thuốc tiên đấy. Chịu khó
uống ít thang nữa là lành lặn hoàn toàn, Thiêm à.
Thiêm có cảm giác, sau cái chết của ông, một cuộc đời mới của anh đã
bắt đầu.
Mâm cơm cúng bốn chín ngày hạ trên tấm ghế ngựa. Mọi người nâng
chén, đôi hồi kỷ niệm về ông. Mấy cụ bô lão trong Hội Thi Sống Lâu do
ông sáng lập, đọc, ngâm câu thơ, lời phúng trong những bức trướng, câu
đối, treo mắc la liệt ở hai bên bàn thờ ông rồi nắc nỏm bình nghị.
Đang ồn ào bỗng có tiếng chó sủa hí hởn ngoài cổng tre rào. Một
người đàn bà ra đuổi chó, quay vào với một phong thư trên tay:
- Bưu tá họ nói, thư về đã hơn một tuần. Ngặt cái, bưu tá bị ốm, xã lại
không có người lên, nên thư đành nằm đấy. Thư của chú Thiêm. Người gửi
ở tận trên La Pan Tẩn tỉnh Lào Cai kia!