bàn, những vuông vải trắng thêu để che lưng và tay ghế xô pha cùng ghế
tựa, rèm mỏng treo ngang cửa sổ và màn dày in hoa ở hai bên - tôi không
thể ngờ mọi thứ trông lại giống nhà các bác gái đến vậy. Và trên tường
phòng ăn - không phải trong phòng tắm hay phòng ngủ mà trong phòng ăn
- treo bức tranh hình bóng một cô gái mặc váy phồng, toàn bộ được làm từ
ruy băng xa tanh hồng. Một dải vải sơn thô ráp được trải trên sàn phòng ăn,
ở lối đi từ bếp đến phòng khách.
Cô Alfrida dường như đoán được phần nào suy nghĩ trong đầu tôi.
“Cô biết là mình tích nhiều đồ quá,” cô nói. “Nhưng toàn là đồ của cha
mẹ cô. Đó là đồ đạc của gia đình, cô không bỏ đi được.”
Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc cô cũng có cha mẹ. Mẹ cô mất đã lâu, và
cô được bà tôi và bác gái nuôi lớn.
“Của cha mẹ cô cả,” cô Alfrida nói. “Khi cha cô bỏ đi, bà cháu giữ lại
đống đồ đạc vì bà nói chúng phải là của cô khi cô lớn, thế nên giờ chúng ở
đây. Cô không thể vứt bỏ chúng đi được, khi mà bà cháu đã mất công đến
thế.”
Giờ thì tôi nhớ ra rồi - cái phần đời của cô Alfrida mà tôi đã quên mất.
Cha cô tái giá. Ông bỏ trang trại và tìm được việc trong ngành đường sắt.
Ông có vài đứa con nữa, gia đình họ chuyển từ thành phố này sang thành
phố khác, và hồi xưa cô Alfrida đôi khi vẫn nhắc đến họ với giọng đùa cợt,
chuyện họ có bao nhiêu con rồi, họ trở nên gần gũi thế nào, gia đình phải di
chuyển nhiều ra sao.
“Đến gặp chú Bill nào,” cô Alfrida nói.
Chú Bill đang ở trên hiên hứng nắng. Chú ngồi, như đang đợi được gọi
đến, trên một chiếc đi văng hay trường kỷ thấp phủ chăn sọc vuông màu
nâu. Tấm chăn nhàu nhĩ - chắc chú vừa nằm trên đó - và tất cả mành cửa sổ
đều bị kéo xuống đến bệ. Ánh sáng trong phòng - ánh nắng nóng bỏng
chiếu qua lớp mành màu vàng có những vết mưa - và chiếc chăn thô nhàu,
gối tựa phai màu cong lõm, thậm chí mùi chăn, mùi dép đi trong nhà của
đàn ông, đôi dép cũ mòn đã không còn nhìn ra hình thù hoa văn gì cả, gợi
tôi nhớ đến nhà các bác gái - cũng y như những tấm lót bát đĩa và đống đồ