Nhưng thực tế là vẫn có chuyện đèn nổ, bà mẹ quấn vải chết chóc, đứa
trẻ mồ côi kiên định.
“Hừm,” cha tôi nói. Nói chung ông khá hài lòng về việc tôi trở thành nhà
văn, nhưng ông không tán thành cho lắm với cái được gọi là nhân vật của
tôi. Cũng như với việc tôi bỏ chồng vì lý do cá nhân - nói đúng ra là lý do
bừa bãi - và cách tôi bào chữa cho mình khắp nơi - hay có lẽ, theo cách nói
của ông, tháo lui khỏi mọi chuyện. Dù ông không nói ra - đó không còn là
việc của ông nữa.
Tôi hỏi làm sao ông lại biết cô Alfrida cảm nhận như thế.
Ông đáp, “Một lá thư.”
Một lá thư, dù họ sống không xa nhau. Tôi thấy buồn khi nghĩ đến việc
ông đã phải chịu mũi dùi bởi cái điều có thể coi là sự khinh suất, hay thậm
chí việc làm sai trái của tôi. Tôi cũng buồn vì dường như bây giờ ông và cô
Alfrida chỉ giữ quan hệ khách khí. Tôi tự hỏi ông đang bỏ lỡ điều gì. Có
phải ông đã cảm thấy ông buộc phải bảo vệ tôi trước cô Alfrida, cũng như
ông phải bảo vệ những gì tôi viết trước người khác? Giờ ông cũng sẽ làm
vậy, dù việc này không dễ với ông. Khi làm cái việc bảo vệ không mấy dễ
chịu ấy, có lẽ ông đã nói gì đó gay gắt. Vì tôi, những khó khăn kỳ dị càng
chồng chất lên ông.
Có một mối nguy hại xuất hiện mỗi khi tôi về quê. Đó là mối nguy hại
của việc nhìn đời mình qua mắt người khác chứ không phải mắt chính tôi.
Nhìn đời mình như một cuốn sách cứ kéo dài ra mãi, như cuộn dây thép gai
rối rắm, gây hoang mang, gây khó chịu - bị đặt đối chọi với những sản
phẩm phong phú, thức ăn, hoa hoét, quần áo đan dệt trong đời sống gia
đình của các phụ nữ khác. Lúc ấy, thật khó mà nói rằng chuyện về quê này
đáng để nhọc công. Có lẽ là đáng để tôi nhọc công thật, nhưng còn người
khác thì sao?
Cha tôi kể cô Alfrida bây giờ sống một mình. Tôi hỏi chú Bill thì thế
nào. Ông nói toàn bộ chuyện ấy nằm ngoài quyền phán xét của ông. Nhưng
ông tin là đã có chút phi vụ giải thoát.
“Giải thoát chú Bill á? Sao lại thế? Ai giải thoát?”