sàn, đập tan bình hoa, nghiến nát giữa ngón tay món hổ lốn của bữa tối
đang đông lại trên đĩa. Nhưng tại sao lại thế? Bà không tức giận. Chỉ là một
nỗ lực điên cuồng, để cứ làm hết thứ này rồi thứ khác. Bây giờ bà phải làm
nóng bình trà, bà phải đong trà.
Bà nói, “Ông có đọc tờ giấy ông lấy ra từ túi áo Lewis không?”
Ông lắc đầu, không nhìn bà. Bà biết ông đang nói dối. Ông đang nói dối,
người ông run rẩy, ông định tiến xa đến đâu vào đời bà? Chuyện gì sẽ xảy
ra nếu bà suy sụp rồi kể với ông về nỗi kinh ngạc bà đã cảm thấy - sao lại
không nói ra, cơn ớn lạnh nơi trái tim bà - khi đọc được những gì Lewis
viết? Khi bà nhận ra đó là toàn bộ những gì chồng bà đã viết.
“Đừng bận tâm,” bà nói. “Chỉ là vài câu thơ thôi.”
Họ là một cặp không có chỗ đứng lưng chừng, không có gì ở giữa những
nghi thức lịch sự và tình thân ái ngập tràn. Chuyện giữa họ, suốt những
năm qua, được giữ cân bằng bởi cuộc hôn nhân của mỗi người. Hôn nhân
của họ là nội dung thực tồn của cuộc đời họ - cuộc hôn nhân của bà với
Lewis, cái nội dung không thể thiếu được này của đời bà, đôi khi khắc
nghiệt và gây hoang mang. Chuyện giữa họ phụ thuộc vào hai cuộc hôn
nhân ấy, để có được vị ngọt ngào, để có được lời hứa hẹn khuây khỏa. Nó
không phải mối quan hệ có thể tự đứng vững, kể cả nếu hai người có tự do.
Thế nhưng cũng không phải là không có gì cả. Mối nguy hiểm nằm ở việc
thử nó, nhìn nó tan vỡ và rồi nghĩ nó không là gì cả.
Bà bật bếp lên, bà đã có bình trà ở đó chỉ cần làm nóng. Bà nói, “Ông đã
rất tốt bụng mà tôi thậm chí còn chưa cảm ơn. Ông phải uống chút trà.”
“Bà thật chu đáo,” ông đáp.
Và khi họ đã yên vị bàn, trà đã rót vào tách, sữa và đường được mang ra
mời - đúng thời điểm khi cơn hoảng sợ có thể đến - bà chợt có một cảm
hứng rất kỳ lạ.
Bà hỏi, “Thật ra thì ông làm cái gì?”
“Tôi làm gì ấy à?”