cánh tay bám chặt hai bên người, toàn thân tràn ngập một nỗi hổ thẹn thấm
thía. Rồi ông nói chuyện với nhân viên tiếp tân, giọng trầm thấp, không
loan báo nhưng cũng không giấu giếm hay xin lỗi về mục đích của họ.
Và rồi họ đi vào thang máy, loại thang cổ trông như cái cũi được một
ông già, hay cũng có thể là bà già, một người tàn tật, hay một người phục
vụ xấu xa láu cá điều khiển.
Tại sao cô lại dựng lên, tại sao cô lại thêm vào cái cảnh ấy? Để nhớ lại
cái khoảnh khắc bị phơi trần, cái cảm giác nhức nhối của sự nhục nhã và
lòng tự trọng đã làm cô tê liệt khi cô đi qua tiền sảnh khách sạn (tưởng
tượng), và để nhớ lại giọng nói của ông, vẻ kín đáo và uy quyền khi ông nói
chuyện với nhân viên tiếp tân, dù cô không hoàn toàn nghe ra được những
từ ngữ đối thoại.
Cái giọng ấy có lẽ cũng cùng tông với giọng ông nói trong hiệu thuốc
cách căn hộ vài dãy phố, sau khi ông đậu xe và bảo, “Đợi anh vào đây một
chút.” Những chuẩn bị rất thực tế mà trong cuộc sống hôn nhân cỏ vẻ nặng
nề và chán nản thì trong tình huống này lại đánh thức một cảnh xúc nồng
nhiệt nhẹ nhàng trong cô, lại khơi lên một trạng thái hôn mê và phục tùng
mới lạ.
Sau khi trời tối, ông đưa cô trở lại, lái xe xuyên qua công viên, qua cầu,
xuyên quận Tây Vancouver, đi quá nhà cha mẹ Jonas chỉ một quãng ngắn.
Cô đến vịnh Horseshoe gần như vào phút chót, và đi bộ lên phà. Những
ngày cuối tháng Năm là một trong những ngày dài nhất trong năm, và mặc
dù bến phà thắp đèn sáng trưng và đèn ô tô rọi sáng khoang tàu, cô vẫn có
thể thấy chút ánh hoàng hôn ửng lên trên bầu trời phía tây, và trên nền trời,
in hình cái gờ đen của một hòn đảo - không phải đảo Bowen mà là một hòn
đảo cô không biết tên - gọn gàng như một chiếc bánh pudding đặt nơi cửa
vịnh.
Cô phải hòa vào đám đông đang chen lấn nhau lên cầu thang, và khi lên
đến boong dành cho hành khách, cô ngồi xuống chỗ trống đầu tiên cô nhìn
thấy. Không như thường lệ, cô thậm chí không buồn tìm chỗ ngồi gần cửa