đó và ông lại nghĩ đến cô con gái tội nghiệp Marcelle, nhớ cô thường ngồi
trên bậc thềm gọi lũ bạn học, giờ đã trưởng thành, vừa mới xuống xe bãi đỗ
để vội vã vào trường đua. Cô cứ tíu tít cả lên, thể hiện niềm vui mừng khi
được về quê, ôm ấp rồi giữ chân người ta, nói liến thoắng luôn miệng về
những ngày thơ ấu và nỗi nhớ mọi người. Rồi cô nói rằng điều duy nhất
không hoàn hảo trong cuộc sống và nỗi nhớ chồng, anh Ken, đang phải bơ
vơ ở miền Tây vì công việc.
Cô ra ngoài đó trong bộ đồ ngủ bằng lụa, với mái tóc nhuộm màu vàng
kim bù xù không chải. Tay chân cô gầy guộc, nhưng khuôn mặt có vẻ hơi
phù, và nước da mà cô bảo là rám nắng hình như là sắc nâu xỉn do bệnh tật
chứ không phải do bắt nắng. Có thể là triệu chứng vàng da.
Con bé con thì ở trong nhà xem ti vi - chương trình hoạt hình Chủ nhật
dành cho lứa tuổi nhỏ hơn nó nhiều.
Ông không thể nói, đúng ra không thể biết chắc có cái gì đó trục trặc hay
không. Marcelle đi London để làm chuyện gì đó của phụ nữ, rồi tử vong ở
bệnh viện. Khi ông gọi điện cho chồng cô, Ken Boudreau hỏi, “Cô ấy uống
thuốc gì vậy?”
Nếu mẹ Marcelle còn sống, liệu mọi chuyện có khác đi không? Sự thật là
bà ấy, khi còn sống, cũng hoang mang chẳng kém gì ông. Bà từng ngồi
khóc trong bếp trong khi cô con gái, lúc ấy đang ở tuổi dậy thì, bị khóa trái
trong buồng riêng, đã trèo qua cửa sổ, trượt xuống mái hiên và được một lũ
con trai đánh xe đến đón.
Ngôi nhà này phủ đầy cảm giác bị ruồng bỏ nhẫn tâm, cảm giác bị phản
bội. Ông và vợ ông hiển nhiên đã là ông bố bà mẹ tốt, nhưng bị dồn đến
chân tường vì cô con gái Marcelle. Khi cô trốn nhà đi với một phi công, họ
đã từng hy vọng rằng mọi việc của cô cuối cùng cũng sẽ ổn. Họ đã rộng
lượng với hai đứa, như với một cặp vợ chồng trẻ đàng hoàng. Nhưng rồi
cũng chẳng đâu vào đâu. Ông cũng từng rộng lượng như vậy với cô giúp
việc Johanna Parry, và xem cô ta đã tráo trở với ông như thế này đây.
Ông quyết định đi bộ vào trung tâm tới khách sạn để ăn điểm tâm. Cô
phục vụ bàn niềm nở, “Hôm nay ông đến sớm thế!”